Thứ Năm, 15 tháng 2, 2018

Đông Phương Tuỵ Mộng Tưởng ~ Trăng Vỡ



Disclaimer: Original work by Akiyama Uni. I own the lyric here.

[00:06] 
Từng câu ca cất vang trời xa, bên dưới vầng trăng sáng
Hỡi bạn tôi ơi, người còn nhớ không, những cung đàn cất vang
Cùng vầng trăng tan vỡ này, ngày xưa chúng ta sum vầy
Bao lời ca, những câu hát vọng vang đêm ngày

[00:41] 
Làm một ly, để quên đi bao nỗi buồn ngày xưa
Một ly, cùng nhau hò vang câu ca ngày mưa
Bạn tôi ơi, chúng ta cùng nhau đùa vui đêm ngày
Ở dưới vầng trăng tan vỡ trong đêm xuân này

[00:58] 
Làm một ly, để quên đi bao ưu phiền, sầu đau
Rượu kia hoà trong từng ngôi sao trên trời cao
Bạn tôi ơi, chúng ta cùng nhau đùa vui đêm ngày
Ở dưới vầng trăng tan vỡ trong đêm xuân này

[01:30] 
Từng tiếng sáo diều, câu hò ngày xưa vẫn cất vang
Khúc ca mùa anh đào, cung đàn nhẹ trôi cùng trăng sáng

[01:46]
Ngọn gió xuân này, đưa bao tội lỗi đi xa
Gột đi bao buồn đau của nhân gian
Theo từng cánh anh đào, từng câu hò dưới ánh trăng
Ngày xa xưa, quỷ nhân ta sống cuối chân trời xanh

[02:02] 
Một tiếng sáo cất vang đằng xa, xua đuổi đi bóng đêm ngày đông
Cùng nhau ta cất bao lời ca, câu hò trong gió đông
Cùng vầng trăng tan vỡ này, ngày xưa chúng ta sum vầy
Bao lời ca, những câu hát vọng vang đêm ngày

[02:18] 
Từng câu ca cất vang trời xa, câu hát trong gió xuân dịu êm
Hoà cùng vầng trăng tan vỡ kia, cánh đào trong bóng đêm
Người lữ khách đang lỡ đường ở vùng núi hoang vu này
Hãy lại đây, tiệc vui kia rộn rang đêm ngày

[02:33] 
Nhớ không bạn tôi? Bao tháng ngày khi xưa hai ta cùng ca vang...

[02:41]
Một cuộc đời như ta cùng nhân gian với quỷ thần đùa trong trăng tàn
Cùng bên nhau, cùng ca hát, cùng vui giỡn dưới ánh hào quang
Thứ như ta, sống thảnh thơi, một con quỷ ở chốn dương trần
Như ngày xưa, tiệc vui dưới cánh đào xuân

[02:57]
Một lời chào nồng ấm đầy nhung nhớ khi ta về vùng quê thanh bình
Bạn tôi ơi, ngày xưa đó, bài ca cất vang đón bình mnh
Thứ như ta, sống thảnh thơi, rượu thơ sống cuộc sống đỗi an nhàn
Như ngày xưa, tiệc vui dưới vầng trăng sáng

[03:30]
Bạn tôi ơi chúng ta cùng say, bên ánh trăng cuối chân trời Tây
Cùng làn hoa trôi theo trời mây, cung đàn xưa vút bay
Cùng vầng trăng tan vỡ này, giờ đây chúng ta sum vầy
Bao lời ca, những câu hát vọng vang đêm ngày.

[03:46]
Bạn tôi ơi, chúng ta cùng say, bên ánh trăng ẩn trong làn sương
Ở bên trong vùng đất thần tiên, cung đàn kia vấn vương
Tiệc sẽ tan khi trăng tàn, như nhành hoa phất phơ trên đường
Theo vần trăng này tỏ sáng trên phố phường.

[04:02]
Hỡi vầng trăng cuối chân trời xa vẫn luôn sáng soi những câu hò xưa
Một câu hát, một khúc ca thân quen ngày xưa...

Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

Pure Furies ~ Kokoro no Arika

Mùa hạ đã đến Gensoukyou khá lâu, khí trời oi bức thay thế làn gió mát rượi của mùa xuân. Vọng trong từng cánh rừng là bản hoà tấu của loài ve, loài dế. Hoa cỏ nở rộ khắp thảo nguyên xanh, vang vẳng tiếng chim hót trên bầu trời xanh thẳm.

Nói cách khác, đó là một mùa hè yên ả.

Dưới bóng mát của một tán cây phong, một nam thanh niên cùng một cô gái với mái tóc màu trời đang ngồi thư thả, ngắm nhìn bầu trời trong xanh không một gợn mây, tận hưởng vẻ đẹp kỳ diệu của mẹ thiên nhiên. Phải, một mùa hè yên ả, không như một năm về trước.

Mới năm trước thôi, vùng đất ảo tưởng thanh bình này bị đe doạ bởi một đội quân viễn chinh từ mặt trăng. Với những ô uế trên thân xác, những yêu quái không nhận ra rằng chính quê nhà của họ đang bị đe doạ, để những con người được chọn đơn thân chấm dứt dị biến được gọi tên “Cám Châu Truyền” này.

Bản thân Kalash, vốn cũng mang trong thân mình nhưng ô uế của sự sống và cái chết, cũng không nhận thấy được những gì xảy ra vào chuỗi ngày đó. Tuy vậy, mùa đông năm trước, anh có nghe phong thanh một phần câu chuyện từ hai người vu nữ. Nó đặc biệt khiến anh tò mò, thôi thúc anh tìm hiểu, nhưng những gì anh nhận được chỉ là những mảnh ghép rời rạc của một câu chuyện ai oán trải dài suốt bấy lâu.

“Tenko này, cô có biết một chút ít thông tin gì về dị biến Cám Châu Truyền vừa qua không?” – Kalash thở dài hỏi.

“Cũng nghe lỏm được kha khá, nhưng vì sao anh hỏi vậy?” – Tenshi đáp.

“Chỉ là... tôi có cảm giác như đó là một câu chuyện khá dài, nhưng với lượng thông tin ít ỏi, tôi không thể ghép chúng thành một câu chuyện hoàn chỉnh.” – Anh nói. – “Tôi biết được rằng, trong thời gian đó, có một thế lực khác tấn công mặt trăng, một thế lực nào đó đủ mạnh để khiến họ không thể chống trả, nhưng đó là ai, hay động cơ của họ là gì, tôi vẫn không tài nào biết được.”

“Hm... có nghĩa là có những thứ Kalash của chúng ta không tài nào tìm ra nhỉ?” – Tenshi tinh nghịch cười. – “Không biết nữa, ban đầu tôi chỉ định đi theo bảo vệ anh thôi, nên những việc ngoài chuyên ngành thì... tôi nghĩ phải có một cái giá tưởng xứng.”

“Ý cô là sao?” – Kalash nhìn Tenshi, vẻ mặt anh như in hằn hai chữ “cái gì” trên trán. – “Cái khúc cuối... tôi chưa hiểu lắm. Cô nói rõ hơn được không?”

“Đùa tí thôi mà.” – Tenshi đáp. – “Tiền công như cũ, tôi là người đầu tiên đọc bài của anh.”

“Vậy khi nào tôi sẽ nhận được thông tin?” – Kalash hỏi.

“Giờ luôn cho nóng...” – Tenshi đáp. – “Nó là một câu chuyện khá dài và phức tạp, bắt nguồn từ một mồi thù xa xưa...”

______________

Chắc hẳn, anh cũng đã có nghe qua về người mặt trăng, phải chứ? Họ là những người trái đất, gồm vị thần Tsukuyomi-no-Mikoto, những người thân của ông, kể cả vị y sỹ Yagokoro Eirin, rời khỏi ngôi nhà mình vì sự ô uế bao trùm cả vùng đất, rút cạn sinh lực của nhân gian, và đến mặt trăng, một vùng đất được cho là thuần khiết. Không ai rõ họ làm được điều đó bằng cách nào, chỉ biết là nhờ vào hiểu biết rằng thế giới được xây dựng trên những biến cố với xác suất xảy ra ngẫu nhiên, họ đã nâng cao xác suất rằng người mặt đất sẽ tìm được đường lên mặt trăng. Tsukuyomi-no-Mikoto cùng những họ hàng thân cận đã thành công, và thành lập Nguyệt Đô, một vùng đất thanh tịnh, tránh khỏi mọi ô uế của cõi trần gian.

Nhờ tranh khỏi những ô uế, tuổi thọ họ được kéo dài ra đáng kể. Có thể nói rằng chính người mặt trăng, trên một phương diện nào đó, gần với thiên nhân và tiên nhân nhất. Tiên nhân họ đạt được cuộc sống bất tử nhờ tu luyện và đánh bại tử thần đoạt mạng tìm để kết thục cuộc đời họ. Thiên nhân chúng tôi cũng như thế, từ những tiên nhân tu hành mà nên, hoặc trường hợp của gia tộc tôi thì... được ban thưởng nhờ phụng sự thần linh. Nhưng xét về phương diện nào đó, họ cũng rũ bỏ ô uế trần tục để nhập cõi niết bàn, nhờ thế tuổi thọ họ được kéo dài, cũng như người mặt trăng vậy.

Quay lại vấn đề chính, người mặt trăng họ rất sợ những ô uế, bởi nó có thể xâm nhiễm vào cơ thể họ, biến họ thành một người trần. Trong những cái ô uế đó, bao gồm cả sự sống và cái chết. Người mặt trăng họ trường thọ, nhưng vẫn có thể chết. Họ cho rằng, những ai đã uống đan dược Bồng Lai, kẻ đó bị ô uế bởi cái chết vì thiếu chúng. Tương tự như vậy, những tiên nữ, vốn là hiện thân của sự sống, cũng có thể đe doạ đến họ.

Người mặt trăng rất khinh bỉ hạ giới, bởi vì những thành tựu của họ cùng với thân hình trong sạch. Bản thân Yakumo Yukari từng dẫn một đội quân viễn chinh để tiến đánh mặt trăng, theo lời ả là để “chiếm lấy nguồn sức mạnh của họ”. Nhưng với ưu thế về địa lợi cùng những sức mạnh to lớn, đội quân của Yukari đã thất bại. Cuộc viễn chinh lần hai thì xảy ra cũng không cách đây quá lâu, và nghe đâu dù đã thua hai trận chiến, Yukari đã chiến thắng cả cuộc chiến đó khi lấy về bình rượu ngàn năm từ mặt trăng, một trong những báu vật của họ.

Và gần đây nhất, theo những gì tôi biết, thì một cô bé từ thế giới bên ngoài, chắc anh còn nhớ cô ta đấy, đã vô tình kích hoạt viên đá huyền bí của Nguyệt Đô, cùng với truyền thuyết đô thị rằng trên mặt trăng có sự sống, đã đưa một đạo quân viễn chinh từ mặt trăng đến xâm chiếm nhằm thực hiện kế hoạch dời đô của mình. Cuộc chiến đó đúng nghĩa là cuộc chiến một chiều, bởi chỉ có quân viễn chinh chiến đấu, những yêu quái khác lại không thể nhìn thấy chúng vì bản thân họ mang ô uế trên người.

Hoá ra, bản thân mặt trăng bị tấn công, và kẻ thù của họ, bằng cách nào đó, đã đưa một đàn tiên nữ lên đấy. Dù anh biết, tiên nữ ở đây chỉ là những trở ngại nhỏ nhặt, nhưng với người mặt trăng, sức sống của chúng đe doạ đến thân hình trong sạch của mình. Họ không thể chống trả, vì thế phải tấn công nơi đây.

Kẻ chủ mưu, tôi nghe nói là một người tên Junko, một người có khả năng đưa mọi thứ về cái nguyên thuỷ, thuần tuý nhất.

______________

“Khoan đã, có phải Junko có nghĩa là Thuần Hồ không?” – Kalash lên tiếng, như vừa chợt nhớ đến một cái gì đó.

“Tôi nghe nói là như thế, và họ cũng bảo cô ta ăn mặc khá giống với người Hoa.” – Tenshi đáp. – “Và hình như cô đánh Nguyệt Đô để trả mối thù nghìn kiếp với họ.”

“Tch... không ngờ.” – Kalash cau mày. – “Nếu thật sự Junko là người đó, thì có lẽ tôi đã hiểu một phần của câu chuyện.”

“Thật à?” – Tenshi mở tròn mắt, hỏi. – “Kể tôi nghe với.”

“Được thôi...” – Kalash đáp. – “Câu chuyện, theo những gì tôi biết, bắt nguồn vào đời nhà Hạ ở Trung Hoa cổ đại...”

______________

Ngày đó, ở một nước chư hầu, có một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần tên Thuần Hồ, được người đời mệnh danh Huyền Thê, vợ của vua Hậu Quỳ. Họ có một người con trai tên Bá Phong, nhưng hắn lại là một kẻ hư hỏng, khiến người đời gọi hắn là Phong Thỉ, tức con lợn Phong.

Trong khoảng thời gian này, Hậu Nghệ đã cướp ngôi nhà Hạ từ Thái Khang khi ông bỏ bê triều chính. Thái Khang cùng Trọng Khang phải lưu vong sang một nước chư hầu khác. Hậu Nghệ lại sa vào vết xe đổ của Thái Khang, bỏ bê triều chính, ham mê săn bắn. Nghe tin nước chư hầu có một mỹ nhân, hắn liền uất quân xâm lược.

Người mỹ nhân đó không ai khác Huyền Thê.

Quân Hậu Nghệ tiến đánh, quân Hậu Quỳ không thể cản được đà tiến công. Hậu Nghệ đã giết chết Hậu Quỳ, cướp Huyền Thê về làm vợ.

Không lâu sau đó, Thái Khang mất, Trọng Khang lên ngôi thế anh mình. Bá Phong, con trai của Hậu Quỳ, kế nghiệp cha, và ủng hộ Trọng Khang. Nổi cơn lôi đình, Hậu Nghệ một lần nữa xua quân xâm lược, và giết chết Bá Phong.

Đau lòng vì cái chết của chồng con, Huyền Thê tư thông với Hàn Trác, một kẻ phản trắc được Hậu Nghệ trọng dụng. Trong một ngày, khi Hậu Nghệ đang săn bắn, Hàn Trác chuốc rượu giết Hậu Nghệ cùng gia nhân, và lấy Huyền Thê làm vợ mình.

Nhưng trong một số dị bản khác, khi Hậu Nghệ tấn công Hậu Quỳ, thấy ông không phục, hắn đã bắn chết Bá Phong. Khi Huyền Thê tư thông với Hàn Trác, chính nàng đã dùng một khúc gỗ đào đập nát sọ Hậu Nghệ.

Nhưng về mối thù với Nguyệt Đô, thì... tôi chỉ suy đoán rằng, có một người liên quan với Hậu Nghệ đang sống trên đó.

Hậu Nghệ ban nãy là theo lịch sử Trung Hoa, nhưng còn một phiên bản Hậu Nghệ trong truyền thuyết, một vị thần có người vợ là Hằng Nga. Một ngày nọ, mười người con trai của Ngọc Hoàng hoá thân thành mặt trời, toả sáng khắp thế gian khiến khắp nơi khô cằn, nóng bỏng. Khuyên con không được, Ngọc hoàng nhờ Hậu Nghệ cứu giúp. Hậu Nghệ đã bắn chín mặt trời, chỉ chừa lại một mặt trời toả sáng. Tuy vậy, mất đi chín người con, Ngọc Hoàng đày vợ chồng ông xuống trần gian.

Khi thấy vợ mình, Hằng Nga, đau khổ vì không còn bất tử trường sinh, Hậu Nghệ đi tìm thuốc trường sinh. Cuối cùng, ông được Tây Vương Mẫu cho một viên thuốc, cùng lời căn dặn rằng mỗi người chỉ cần nửa viên để đạt được trường sinh.

Ông mang thuốc về và cất trong một chiếc hộp, và dặn Hằng Nga không được mở. Nhưng, vì tò mò, nhân lúc Hậu Nghệ đi vắng, nàng mở chiếc hộp và nhìn thấy viên đan dược, ngay khi ông trở về. Sợ bị phát hiện, nàng uống viên đan dược, và bị hút về mặt trăng.

______________

“Ở phiên bản truyền thuyết, thì Hậu Nghệ có người vợ là Hằng Nga, vốn là nữ thần mặt trăng trong thần thoại Trung Quốc.” – Kalash tiếp tục. – “Nhưng, nó vốn không liên quan đến Hậu Nghệ ở trong lịch sử, người đã bắn chết Bá Phong, con của Junko.”

Ngừng một lúc, Kalash tiếp lời:

“Không loại trừ việc hai con người đó là một.” – Anh nhìn lên trời với anh mắt đăm chiêu. – “Có lẽ Hậu Nghệ là một con người mang công vác tội, nên dân gian đã chia hình ảnh ông thành hai con người. Họ mang ơn ông vì đã bắn hạ mặt trời, nhưng ghét ông vì bỏ bê triều chính, sa đoạ vào vết xe đổ của vị vua trước. Tất nhiên, đó chỉ là phỏng đoán, và để xác minh giả thuyết này, e rằng chỉ có bản thân Junko mới có tư cách trả lời.”

Anh lấy bình nước ra uống, trước khi tiếp tục:

“Nhưng, dù bất cứ giá nào, người phụ nữ mang tên Thuần Hồ kia đã phải trải qua một cuộc đời nghiệt ngã.”


Ngồi cạnh bên, người thiên nhân khẽ gật đầu đồng tình. Xung quanh họ, gió vẫn thổi, lá vẫn rơi trong dàn đồng ca du dương của loài ve sầu. Nhưng vì sao, đối với họ, bản đồng ca nghe như một lời ai oán chất chứa hận thù.

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2016

The shattered Star, the sharpened Sickle, and the broken Hammer

Cuộc chiến này đã kéo dài hơn tám năm rồi. Tám năm qua, những người con anh hùng của đất mẹ lần lượt ngã xuống, dòng máu họ thấm đẫm mảnh đất băng giá của Euslavia, và những người ở lại, họ trải qua những sang chấn nặng nề. Tôi từng thăm những thương binh thuộc Bộ Đội Đổ Bộ Đường Không VDV, và tất cả họ đều có một sự phẫn nộ, một sự buồn đau chung. Họ phẫn nộ vì những kẻ khốn nạn bên phía bên kia Terra, họ đau buồn vì những người đồng đội đã ngã xuống khi cuộc đời còn trẻ.

Xin thứ lỗi, tôi hơi lạc vào suy nghĩ của mình. Tự giới thiệu, tôi là Ivan Krushchyov, biệt danh Serp, tức chiếc Liềm, một trung uý thuộc VDV, và là một trong hai người lính đặc công của Euslavia. Sau chiến dịch Amur, tôi và một người đồng chí được trao tặng huân chương cờ đỏ và huân chương sao đỏ, đồng thời được đặc cách trở thành một đơn vị đặc biệt, một “đội quân một người” chỉ được gọi vào chiến trường trong tình huống khẩn cấp nhất, khi những chiến thuật tác chiến thông thường trở nên không hữu hiệu.

Tổng cộng trong cả Liên minh Viễn Đông này, chỉ có sáu người được đặc cách như vậy. Hai người Euslavia, hai người Việt Nam, và hai người Yamato. Mỗi người đều phục vụ cho một nhánh quân khác nhau của Liên minh. Tôi là một người lính VDV, và sẵn sàng chiến đấu khi bộ phận chỉ huy kêu gọi cho lực lượng tinh nhuệ nhất, Lữ đoàn Berkut. Nguyễn Lê Minh Chiến là một người đồng chí ở Việt Nam, phục vụ trong Quân đội Nhân Dân Đông Nam Arasia, và là chỉ huy của lữ đoàn Lạc Long Quân, lữ đoàn lục quân tinh nhuệ với vũ khí công nghệ cao. Lê Huỳnh Minh Nhựt là một nữ xạ thủ du kích của Mặt Trận Giải Phóng Đông Nam Arasia, chỉ huy của lữ đoàn du kích Âu Cơ, một lữ đoàn xạ thủ với lính đặc công. Shinozaki no Hoshigumo, một lính biệt kích của Quân đội Tự Vệ Yamato, chỉ huy của một đạo quân biệt động mang tên Lữ đoàn Thiên Cẩu, và ngay cả đồng chí ấy, bản thân cũng là một thiên cẩu.

Cũng không có gì ngạc nhiên lắm đâu, các nữ nghiên cứu sinh nhỏ tuổi ạ. Thế giới này nó đã hỗn loạn hơn những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Một thế giới với những vũ khí huỷ diệt, một thế giới nơi người Euslavia chúng tôi có những năng lực siêu nhiên, một thế giới nơi những thần thánh, những sinh linh mà chúng ta từng phủ nhận, giờ đây đang bước đi và chiến đấu cùng chúng ta. Thật đấy, mọi thứ thay đổi như chong chóng vậy. Mới ngày nào, chúng ta còn sống hạnh phúc dưới tiếng nhạc, tiếng cười, giờ đây chúng ta sống dưới tiếng bom và tiếng đạn.

Nhưng có vẻ tôi lạc đề rồi, tôi còn hai nhân vật cần phải giới thiệu, nếu ba cô không phiền. Tôi nhớ rằng, ở Tự Vệ Quân Danh Dự của Yamato có một cô gái trẻ tuổi, nhưng mang một sức mạnh thần thánh. Cô ta tên Fujiwara no Kokorohime, có thể đó không phải là tên thật của mình nữa, nhưng, cô ta có thể dùng những bùa phép chiến đấu phi thường, đến nỗi, dù không muốn, nhưng đôi khi tôi có cảm giác cô ta như một vũ khí sống vậy. Nhưng tôi cũng không mấy để tâm lắm, bởi cô ấy thật sự dễ mến, một con người thân thiện trong cái thế giới tăm tối này. Cô ta cũng là một chỉ huy cấp cao, thủ lĩnh của Lữ đoàn Phòng Vệ Hà Đồng, lữ đoàn với những đơn vị tác chiến mặt đất và mặt nước.

Còn người cuối cùng, một con người từng hiền hậu, giờ đây khoá chặt cảm xúc của mình vào nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn. Nikolai Kalashnikov, Molot, cây Búa của Quân đội Nhân Dân Liên Bang Xô Viết Euslavia. Tôi tin là các cô đã gặp anh ta rồi, anh ta là người lính trong bộ giáp đặc chủng của quân xung kích, với khuôn mặt bị cháy hết phần bên trái, tay cầm một khẩu súng phóng điện to lớn.

“Phải, anh ta có vẻ gì đó đáng sợ.” – Người nghiên cứu sinh với mái tóc màu hạt dẻ cột hai đuôi nói với tôi. – “Anh ta có một cái giọng rất lạnh, lạnh hơn cả mùa đông vùng Viễn Đông Euslavia, và điều đó khiến bọn em khó chịu thế nào.”

Anh ta là một người lính thuộc quân đoàn xung kích, quân đoàn bộ binh hạng nặng với nhiệm vụ của một cỗ xe tăng khi đơn vị cơ giới không thể chiến đấu. Anh ta từng rất thân thiện, từng cười nói rất vui vẻ, nhưng sóng gió của cuộc chiến này đã đánh một đòn nặng nề vào tâm lý anh, khiến anh trở thành một con người vô cảm.

Các cô có biết vì sao chúng tôi có biệt danh là Búa và Liềm không? Đó chính là biểu tượng của quốc huy chúng tôi. Nhưng, đó chưa đủ, bởi lá cờ còn có một ngôi sao năm cánh nữa.

“Ý anh là... còn một người nữa có biệt danh là Ngôi Sao sao?” – Nữ nghiên cứu sinh với mái tóc hoe vàng nhìn tôi, hỏi.

Phải đấy, anh ta từng là một đặc nhiệm Spetsnaz, Viktor Suvorov, Zvezda, Ngôi Sao. Cả ba chúng tôi là bạn thân từ thuở nhỏ. Chúng tôi học cùng nhau, chơi cùng nhau, và nhập ngũ cùng nhau. Tôi chọn con đường của người lính dù, Molot chọn trở thành một lính xung kích, trong khi Zvezda chọn trở thành một Spetsnaz. Chúng tôi tuy thuộc ba quân khác nhau, nhưng khi rảnh thì vẫn hú nhau đi lang thang trên khắp phố. Sau khi cuộc chiến nổ ra, chúng tôi vẫn có những cơ hội chiến đấu cùng nhau. Molot đánh thọc sâu vào chiến tuyến kẻ thù, tôi tấn công từ bầu trời, đánh từ trong đánh ra, trong khi Zvezda chỉ điểm những mục tiêu quan trọng cho quân ta không kích. Những cuộc chiến ấy tuy khốc liệt, có những trận thất bại, nhưng ít nhiều chúng tôi đã cản được bước tiến của Hợp Chủng Quốc vào Euslavia.

Và ngày phản công đã đến, chiến dịch Amur được thi hành. Zvezda được giao nhiệm vụ đánh dấu các cứ điểm quan trọng như các công xưởng, doanh trại, sân bay. Với khả năng nguỵ trang của mình, anh đã thành công, và gây hoảng loạn trong hàng ngũ địch. Nhưng, xui xẻo thay, trong một phút sơ suất, anh đã bị phát hiện, buộc phải cố thủ trong một ngôi nhà hoang trên đồi. Anh dùng mọi thứ để đánh trả, trong khi Molot và tôi được phái đến để giải cứu. Chiếc Il-198 bay hết tốc lực trên bầu trời, trong khi ở mặt đất, dàn xe chiến đấu bộ binh T-15 chạy băng qua từng cánh đồng, từng ngọn đồi, tiến đánh để giải vây.

Chúng tôi đến không kịp... chúng tôi đã không kịp. Đạn đã hết, sức không còn để duy trì lá chắn ngoại lực, Zvezda trúng hai viên đạn, một viên vào chân và một viên vào vai. Kẻ thù ngày càng tiến lại gần, tìm cách bắt sống anh. Với chút sức lực cuối cùng, anh hét vào bộ đàm:

“Zvezda với đài chỉ huy, nghe rõ trả lời. Tôi đã bị bao vây, trong tay không còn gì để chiến đấu. Kẻ thù đã tiến đến quá gần. Đề nghị không kích vị trí của tôi, năm mươi ba độ năm mươi lăm phút năm mươi lăm phết chín giây vĩ bắc, một trăm ba mươi độ hai phút tám phết năm giây kinh đông.”

Chúng tôi nghe rõ mồn một lời nói của anh.

“Đã rõ, tiến hành không kích.”

Tôi nghe thấy tiếng người trực điện đàm, giọng của anh như nghẹn lại. Những gì chùng tôi nghe thấy sau đó là tiếng bom nổ, và im bặc. Một sự im lặng đáng sợ, lạnh lẽo bao trùm tất cả. Tôi không thể tin vào mắt mình, khi người bạn của tôi đã hi sinh trên chiến trường như vậy.

“Chỉ huy.” – Giọng Molot tức tưởi nói trên bộ đàm. – “Chúng tôi đã đến đây rồi, xin hãy cho phép được tiến công và tiêu diệt toàn bộ đám tàn quân bọn chúng.”

“Chấp thuận.”

Trên bộ đàm, tôi nghe rõ được tiếng nói của Molot, một giọng nói đầy căm hận:

“Hỡi những người con Euslavia anh hùng. Ngày hôm nay, một người đồng chí của chúng ta đã hi sinh trước lũ phỉ Atlantica. Anh ta chết khi nhiệm vụ còn dang dở, vì thế, hãy cùng nhau hoàn thành chúng, và rửa thù cho Ngôi Sao anh dũng ấy. Hỡi các đồng chí, ZA NAMI MOSKVA, NI SHOGU NAZAD!” (Sau lưng ta là Moskva, không ai lùi bước!)

“URAAAAA!” – Tất cả, kể cả tôi đồng thanh hét. Tất cả đều nuốt lấy thương tiếc vào trong, tay siết chặt lấy vũ khí, đôi mắt hừng hực căm phẫn. Chỉ hơn hai phút sau, chúng tôi đến địa điểm tập kích. Những người lính VDV nhảy khỏi chiếc Il-198, trong khi những chiếc T-15 lao thẳng vào vòng chiến. Những người lính xung kích và những tổ xe T-15 xung phong, bảo vệ cho những người lính bộ binh ratnik cùng các uỷ viên chính trị kiêm quân y ở sau. Chúng tôi đổ bộ vào giữa căn cứ địch, súng bắn hạ tất cả những kẻ chống cự. Những chiếc BMD-8 với pháo chống tăng dễ dàng triệt hạ những chiếc M1A8 Abrams của Hợp Chủng Quốc, bắn thủng lớp giáp bằng uranium nghèo và composite của chúng. Những chiếc AH-95 Apache II không là đối thủ với những đơn vị phòng không. Khi một người lính ngã xuống, chúng tôi chiến đấu với sức mạnh của mười người để trả thù. Súng bắn đỏ nòng, chúng tôi lao vào bóp cổ, đánh cận chiến với chúng bằng mọi thứ, từ dao găm đến nắm đấm. Bị một cuộc tấn công bất ngờ như vậy, hàng ngũ chúng nhanh chóng tan rã.

Ở vòng ngoài, những người lính vẫn chầm chậm tiến lên, càn quét như một con sóng thần. Những phát tesla từ bộ binh xung kích nung chảy giáp xe tăng, và thiêu rụi cơ thể người. Họ tiến như một bức tường thép, không gì có thể cản được cuộc tiến công vũ bão này. Quân đội địch bị kẹt giữa hai mặt trận, tiến thoái lưỡng nan. Chẳng mấy chốc bị tiêu diệt và bắt sống. Chúng tôi thiệt hại hơn hai mươi lăm người, cùng năm mươi người bị thương. Năm chiếc BMD-8 và bảy chiếc T-15 bị bắn cháy, dù tổ lái vẫn sống sót.

Sau đó, Zvezda được truy tặng Danh hiệu Anh hùng Euslavia, Molot và tôi được trao tặng Huân chương Cở Đỏ và Huân chương Sao Đỏ. Nhưng, ngày hôm ấy, một ngôi sao đã tan vỡ.

Tôi đã vượt qua nỗi đau, nhưng Molot thì không. Trận chiến ấy, anh bị một quả đạn lửa kích nổ gần đầu, thiêu cháy một phần khuôn mặt anh, cùng với chấn thương vùng đầu nặng nề. Dù đã được cứu chữa, nhưng anh cũng không còn như xưa. Anh trở nên vô cảm, và thường ẩn mình đằng sau chiếc mặt nạ, trừ khi anh không trong công tác chiến đấu. Anh cũng trở nên cực đoan hơn bao giờ hết, sẵn sàng hướng đến những phương pháp tác chiến khốc liệt nhất, điển hình chính là máy khuếch đại cải tiến, có thể đưa anh vào một trạng thái không sợ hãi, và khuếch đại lớp lá chắn của mình lên nhiều lần, để triệt hạ và phá vỡ trận tuyến kẻ thù. Khẩu súng tesla của anh cũng được cải tiến đáng kể, thay vì dùng nắm đấm tesla cơ động hơn của bộ giáp xung kích hiện tại. Anh gần như không còn biểu lộ cảm xúc, mà chỉ có một vẻ mặt buồn thảm khó tả.

Lúc ấy, cánh cửa mở toang, Molot đứng ngoài, gọi:

“Đồng chí, có vẻ như chúng ta có một nhiệm vụ rồi.”

Vẫn cái giọng vô cảm đấy, anh chầm chậm bước đi.

Có vẻ như tôi phải đi rồi, nên cũng xin thứ lỗi với ba cô khi không thể kể thêm.

“Không sao đâu, đồng chí.” – Cô gái với mái tóc hạt dẻ cắt ngắn nói. – “Dù sao chúng em cũng thu thập đủ thông tin cho bài báo rồi.”

Hoạt động phong trào trong trường Đại Học à? Đó là những gì tôi đáp, trước khi mỉm cười và bước đi vởi khẩu súng máy, tất nhiên là sau khi chào ba cô gái ấy.

Có một điều tôi vẫn muốn nói, rằng vào ngày hôm đó, một ngôi sao tan vỡ, một chiếc liềm mài bén, và một chiếc búa gãy đôi. Nhưng vỉ bất cứ giá nào, chúng tôi vẫn chiến đấu, chiến đấu vì tổ quốc, vì nhân dân, và vì những nụ cười hồn nhiên của những đứa trẻ. Phải đấy, đó chính là nghĩa vụ của một người lính. Một cái giá không rẻ, có những người đã mất tất cả, nhưng họ đều hành quân, đều tiến bước.

Bởi vì... za nami Moskva, ni shogu nazad!

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016

Yuurei Gengakudan ~ Phantom Ensemble

Disclaimer: The lyrics I use in this fanfiction is belong to Asa Turney. Full version of this can be found here.

-------

“Một ngôi biệt thự nằm gần Hồ Sương Mù à?” – Kalash uể oải nói, ánh mắt nhìn lơ đễnh lên bầu trời xanh thẳm. – “Ý cô là Hồng Ma Quán sao?”

“Không.” – Một cô gái với mái tóc màu xanh biếc của trời đáp. – “Tôi đang nói đến căn biệt thự Phương Tây bỏ hoang.”

“Ý cô là... nơi ở của ba chị em đó?” – Kalash bật dậy, nhìn chằm chằm vào mặt cô gái. – “Cô có việc gì với họ à, Tenko?”

“Không hẳn vậy.” – Tenshi tinh nghịch đáp. – “Chỉ là hơi tò mò về ba chị em đó thôi.”

“Vậy sao cô không đi tìm hiểu?” – Kalash hỏi.

“Vì đó là việc của một nhà nghiên cứu như anh mà, phải không?” – Tenshi đáp.

“Cái...” – Kalash bật ngửa trước câu trả lời của ả thiên nhân. – “Thôi được rồi. Muốn thì tôi làm.”

“Cảm ơn anh nhiều nhé, Kalash.”

-------

“Ba chị em nhạc sỹ Prismriver sao...” – Kalash bước qua lại trong căn nhà nhỏ của mình. – “Nghệ sỹ tao linh của quá khứ, với khả năng chơi nhạc cụ mà không cần động vào.”

Anh nằm xuống chiếc chiếu nhò trong góc nhà, mắt lim dim cố gắng nhớ lại ngày hội xuân ở làng. Phải, tiếng nhạc xao xuyến lòng người, tiếng nhạc lạnh lẽo như vọng từ cõi u linh, nhưng, vì một lý do nào đó, tiếng nhạc ấy mang một nỗi buồn, một nỗi thương nhớ. Anh nhớ anh đã khóc trong buổi diễn ấy, trong lòng chứa đầy một dòng cảm xúc cuồn cuộn như sóng biển.

Không một phút chần chừ, anh bật dậy và bước về hướng Hồ Sương Mù trong màn đêm bất tận, chiếc ba lô trên vai, bình nước thép giắt bên hông và cây đèn bão trong tay. Anh muốn tìm hiểu cái cảm xúc hỗn loạn anh cảm nhận được vào ngày ấy.

Chừng hơn một giờ đi bộ, anh đến toà dinh thự đổ nát. Không một tiếng động nào từ trong, tức là ba chị em đã có một buổi diễn ở đâu đó. Nhận thấy một cơ hội ngàn vàng, anh quyết định lẻn vào trong.

Toà nhà tuy cổ, những đống đổ nát, những đống tàn tích vẫn còn đó, nhưng trông chúng rất sạch sẽ. Những căn phòng ngủ được dọn rất kỹ càng, dù anh không tò mò với những nơi riêng tư này. Căn bếp, phòng ăn, phòng khách, tất cả đều rất sạch sẽ, không một hạt bụi bám trên nóc tủ, bám trên chiếc bàn. Sau một hồi lang thang trong toà dinh thự, anh đặt chân vào sân khấu. Giữa căn phòng rộng lớn ấy là một ngôi mộ nhỏ.

“Nơi đây an nghỉ Layla Prismriver, người ca sỹ của cõi trời mùa đông.” – Chiếc bia ấy ghi.

Kalash lặng lẽ lấy một cánh hoa anh luôn mang theo mình đặt nhẹ lên ngôi mộ. Anh kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ.

Pokojcya s mirom! Layla Prismriver.”

Đoạn, anh bước đi, tiếp tục công việc của mình.

“Tên người trần kia, ngươi làm gì ở đây thế?” – Một giọng nói vang lên sau lưng Kalash. Điếng người, anh quay lại nhìn, để thấy ba chị em đang lơ lửng giữa không trung. Ánh mắt họ vẫn vô hồn, nhưng dường như anh có thể nhận thấy một sự tức giận từ trong người họ.

“Tôi, tôi không có ý đó.” – Kalash nói, cố gắng giữ bình tĩnh trước ba tao linh. – “Tôi chỉ muốn tìm một vài tư liệu.”

“Về cái gì?” – Lunasa giận dữ hỏi.

Kalash làm thinh. Anh không đủ can đảm để nói mục đích mình đến ngôi biệt thự. Ba chị em từ từ tiến lại gần anh, khiến anh hoảng hồn bật lùi về. Merlin nhìn chăm chăm vào mắt anh như đang dò xét. Lyrica lục lọi chiếc ba lô anh mang theo trong khi Lunasa nhìn bao quát căn phòng.

“Hm... có vẻ như ngươi cũng không phải là người xấu.” – Merlin lên tiếng. – “Thế thì hãy nói ta nghe, ngươi đến đây làm gì trong đêm khuya như vậy, hỡi người trần?”

“Nếu anh muốn tìm tư liệu để viết một bài báo về chúng tôi thì có gì phải lén lút đâu?” – Lyrica cầm quyền sổ tay của Kalash, tinh nghịch nói. Kalash giật bắn miình trước khi tìm cách lấy lại quyển sổ từ tay Lyrica. Nhưng cô nàng nhanh chóng bay đi, khiến anh mất đà và ngã sấp xuống đất.

“Xin lỗi...” – Kalash lồm cồm bò dậy. – “Nhưng... tôi bị ám ảnh bởi bản nhạc các cô biểu diễn hồi hội ngắm hoa anh đào, nên tôi...”

“Thôi được rồi, tôi sẵn sàng bỏ qua cho anh.” – Lunasa nói. – “Hãy ngồi xuống, và lắng nghe một câu chuyện bi kịch của một gia đình hạnh phúc.”

-------

Ngày xưa, ở một vương quốc xa xôi nọ, có một Bá Tước tên Prismriver. Ngài có bốn người con gái xinh đẹp, tài giỏi. Người chị cả là Lunasa, một nghệ sỹ vỹ cầm, với những bản nhạc u sầu của ánh trăng thu. Người em thứ hai là Merlin, một nghệ sỹ trumpet với những bản nhạc tươi vui như ánh mặt trời ấm áp của mùa xuân. Người em thứ ba Lyrica, một nghệ sỹ dương cầm, với những bản nhạc huyền ảo như ánh sao buổi tối mùa hạ. Và người em út là Layla, một ca sỹ, với giọng hát êm ái của cõi trời mùa đông. Rất nhiều quý tộc để mắt đến họ, nhưng vì không muốn xa rời nhau, nên họ khước từ nhẹ nhàng những lời cầu hôn.

Tuy vậy, sau những biến cố xung quanh một mòn vật lạ mà người cha mang về, cả gia đình Prismriver tan rã. Ngài Bá Tước ra đi trong nỗi tiếc thương của những đứa con, tiền bạc, gia sản của ngài cũng không còn. Chỉ trong hơn nửa năm kể từ cái ngày định mệnh ấy, cuộc sống ấm êm của họ giờ đây chỉ còn trong ký ức.

Ba người chị buộc phải tha hương cầu thực, lấy chồng xa, để lại người em út cô đơn trong ngôi biệt thự lạnh lẽo. Ngày qua ngày, Layla ngóng trông những người chị của mình. Một niềm tin vô vọng, nhưng cô quyết bám níu lấy nó, tuyệt vọng níu kéo những tháng ngày trong quá khứ.

Cuối cùng, gục ngã trong nỗi nhớ, Layla tìm lấy món đồ ma thuật mà ngài Bá Tước đem về, món đồ đã gây nên mọi thứ, món đồ đã phá huỷ đi những tháng ngày hạnh phúc năm xưa. Với những ma lực có được từ nó, cô tạo nên ba tao linh từ hình tượng của những người chị gái. Layla chỉ muốn một lần nữa, chỉ một lần nữa, được nghe tiếng nhạc của những người chị mình.

Tuy vậy, ba tao linh ấy chỉ là hình ảnh phản chiếu mờ nhạt trong ký ức Layla. Họ không phải là những người chị gái ngày xưa. Có thể Lunasa mang mái tóc hoe vàng của người chị ngày trước, có thể Merlin mang mái tóc bạch kim của người chị ngày xưa, có thể Lyrica mang mái tóc màu hạt dẻ của người chị quá khứ, nhưng những tao linh này không phải là họ. Dù với ma thuật mạnh nhất, cô vẫn không thể đưa những nhân cách của những người chị vào ba sinh linh này. Một lần nữa, cô gục ngã trong tuyệt vọng, tuyệt vọng vì mong muốn được nghe bản nhạc cuối cùng.

Những năm tháng sau đó, từng chút một, Layla dạy cho ba tao linh của mình những bài học cơ bản nhất. Từng chút một, từng chút một, những tao linh tiếp thu. Tuy vẫn chưa thuần thục như những người chị ngày trước, Layla vẫn cảm thấy hạnh phúc, bởi cô biết rằng, chỉ một chút nữa thôi, bản nhạc ấy sẽ cất lên như ngày trước.

Nhưng rồi, tuổi gia và bệnh tật dần xâm chiếm cơ thể cô. Ngày qua ngày, cô càng yếu đi. Khuôn mặt xinh tươi ngày nào giờ đây đầy những nếp nhăn của muộn phiền. Nhưng cô vẫn tiếp tục, vẫn tiếp tục dạy bảo những tao linh ấy. Một niềm tin mù quáng, cô biết rõ, nhưng cô vẫn tiếp tục, khát khao được nghe bản nhạc cuối cùng của người chị ngày càng bùng cháy mãnh liệt, một ngọn lửa soi đường cô vượt qua mọi thứ.

Mùa đông năm ấy, Layla trải qua một cơn bạo bệnh. Biết mình không thể sống trên cõi đời này, cô gọi những tao linh, không phải, cô gọi những người chị của mình, trước khi nói ước nguyện cuối cùng.

"Những người chị yêu dấu của em." - Layla thều thào nói. - "Ngày hôm nay, hãy cùng nhau làm một buổi diễn cuối cùng nào."

Layla ngồi giữa sân khấu trong toà nhà mục nát, với ba người chị mình đứng cạnh bên. Giữa anh đèn mờ nhạt, họ cùng nhau chơi một bản nhạc cuối cùng. Tiếng vỹ cầm, tiếng trumpet và tiếng dương cầm đan xem giữa giọng hát thều thào của Layla. Dù không như những ngày tháng ấy, nhưng Layla rất hạnh phúc, hạnh phúc vì một lần nữa, cả bốn chị em được biểu diễn như những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ.

Thuở xa xưa, khúc ca tươi đẹp dưới ánh trăng vàng
Khúc ca thân thương trong đêm xuân ta từng hát vang
Biết bao kỷ niệm, khúc ca huy hoàng dưới vầng trăng sáng

Thuở xa xưa, biết bao tiếng đàn biết bao câu nhạc
Khúc ca thân thương trong đêm xuân ta từng hát vang
Tới đây không còn, tháng năm êm đẹp bên vầng trăng sáng

Và giờ đây, khúc ca đau buồn dưới ánh trăng tàn
Khúc ca đau thương trong đêm đông ta vẫn hát vang
Gió đông khốc tàn, lá cây úa tàn, bên vì sao sáng

Và giờ đây, khúc ca đơn độc dưới ánh trăng tàn
Khúc ca đau thương trong đêm đông ta vẫn hát vang
Tới đây không còn, tháng năm êm đẹp bên vầng trăng sáng

Hỡi khúc nhạc xưa kia, hãy cất lên đi nào
Cùng những tiếng đàn dịu êm chúng ta chơi hôm nào
Khúc nhạc xa xưa dưới bao nhiêu vì sao
Cùng hoài ức vọng vang trong từng cánh đào

Cùng kỷ niệm xưa kia, hãy cất lên đi nào
Cùng bao tiếng nhạc dịu êm chúng ta chơi hôm nào
Khúc nhạc tươi vui dưới bao nhiêu vì sao
Cùng hoài ức vọng vang trong từng cánh đào

Cũng như mùa xuân, hỡi bao tiếng kèn vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui chúng ta vẫn luôn hoà ca
Cũng như đêm thu, tiếng vĩ cầm vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui vang lên đằng xa

Hạ kia đỏ sắc, hỡi tiếng dương cầm vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui chúng ta vẫn luôn hoà ca
Cũng như đêm đông, tiếng ca này vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui vang lên đằng xa

Bản nhạc kết thúc cũng chính là lúc Layla trút hơi thở cuối cùng.

-------

Tiếng nhạc kết thúc, ba người nghệ sỹ tao linh nghiêng người chào trước khi bước về phía sau cánh gà. Từ trên khán đài, Kalash thẫn thờ ngồi, cố gắng kìm nén những cảm xúc trái chiều đang nổi lên cuồn cuộn như sóng biển. Cái cảm giác đau buồn, tuyệt vọng tìm lại tiếng nhạc ngày xưa, xen lẫn với tình cảm gia đình, tình cảm chị em mãnh liệt.

“Kể từ ngày Layla qua đời, chúng tôi cố gắng hoàn thiện kỹ năng của mình.” – Lunasa nhẹ nhàng bước đến bên cạnh Kalash, bàn tay lạnh lẽo của cô đặt nhẹ lên vai anh. – “Chúng tôi chỉ là những tao linh được tạo ra từ tấm gương mờ của quá khứ, nhưng Layla đã cho chúng tôi một mục đích sống. Và giờ đây, để trả ơn cho Layla, chúng tôi sẽ tiếp tục diễn, để mong ước của Layla không bao giờ tan biến.”

“Một buổi trình diễn tuyệt vời, thưa quý cô.” – Kalash nói.

“Anh chỉ có thể nói thế thôi sao?” – Lyrica tinh nghịch hỏi.

“Không hẳn...” – Kalash hạ giọng. – “Chỉ là... tôi không biết phải nói thế nào. Buổi trình diễn của các cô, nó mang lại một cảm giác, một cảm giác mà tôi chỉ có thể nói là lạnh lẽo nhưng ấm áp. Nó cũng như các cô vậy, bàn tay của cô không một hơi ấm của con người, nhưng với nó, cô lại viết, lại chơi những bản nhạc ấm áp.”

Còn một điều anh không nói, rằng anh đã hiểu được cái cảm xúc khi nghe bản nhạc của ba chị em nghệ sỹ tao linh ngày hội xuân. Đó là tình gia đình, thứ tình cảm mà anh đã vứt bỏ từ lâu, thứ tình cảm mà anh cố gắng chôn chặt dưới nơi sâu nhất của trái tim mình. Anh đã nghĩ rằng, dường như không có gì có thể khơi gợi lại chúng, nhưng những bản nhạc u linh này đã khiến chúng trỗi dậy.

“Cảm ơn các cô.” – Kalash nói thầm. – “Vì đã giúp tôi nhớ lại thứ tình cảm thiêng liêng này.”

Anh vẫy chào từ biệt ba người nghệ sỹ, trước khi bước đi vào màn đêm bất tận.

Thứ Năm, 4 tháng 2, 2016

Haigoku Rarabai

“Ta thấy bọn Hà Đồng ở chân núi có tiềm năng đấy chứ.”

“Cô lại định làm gì nữa sao, Kanako? Lần trước khi cô lên kế hoạch đưa chúng ta đến đây, cô đã gây một dị biến và bị hai ả người trần đập tơi tả.”

“Không phải cô cũng thế sao? Mà bớt tổ lái đi, cóc cạp. Dù gì thì họ cũng đã chấp nhận chúng ta, vậy nên, cứ coi kế hoạch này là một món quà, một món quà có thể thay đổi bộ mặt của một vùng đất lạc hậu này.”

“Ý cô là gì?”

“Một cuộc Cách mạng Công Nghiệp”

“Nhưng cô hiểu là chúng ta thiếu một thứ huyết mạch phải không?”

“Phải, nên ta luôn có kế hoạch dự trù sẵn.”

“Ây dà! Cô định làm gì nữa đây?”

“Có gì to tát đâu, ban sức mạnh của Yatagarasu cho một con quạ, và dụ dỗ nó tạo năng lượng cho cuộc Cách mạng Công Nghiệp Núi Yêu Quái này.”

________________________________________

“Orin!”

Một giọng nói vang lên từ một cô gái mang mái tóc tím nhạt, cắt dòng suy nghĩ của nàng mèo đen đang ngồi thẫn thờ trên đống xương sọ cô thu thập.

“Tiểu thư Satori? Người xuống đây làm gì thế?”

“Cũng sắp đến ngày ấy phải không” Satori đáp, một câu trả lời không ăn khớp.

“Phải...” Rin buông một tiếng thở dài, đôi mắt u sầu nhìn xuống mặt đất. “Nếu lúc ấy... em có thể ngăn bạn ấy...”

Người nàng Hoả Xa run bần bật, hai bàn tay nắm chặt, miệng cắn chặt như cố kìm nén một nỗi buồn khỏi tuồn trào. Nhưng rồi, cô oà khóc.

Satori chầm chậm bước lại gần, ôm nhẹ lấy nàng Hoả Xa.

“Ta hiểu mà...” Cô cố gắng dỗ lấy con mèo của mình. “Ta không trách ngươi đâu, ta cũng không trách em ấy đâu.”

Cô đưa bàn tay quẹt lấy dòng nước mắt đang tuôn trào từ khoé mắt nàng mèo.

“Nhưng... ta cũng cần phải biết... chuyện gì đã xảy ra vào lúc ấy...”

________________________________________

Em không biết rõ nó bắt đầu từ khi nào.

Ngày hôm ấy, chừng một năm sau ngày hai vị thần trên núi xuất hiện, em có lẻn lên đấy và nghe lỏm được một câu chuyện.

Đừng hỏi vì sao em có thể vượt qua lũ Bạch Lang Thiên Cẩu đấy, bởi lúc ấy em chỉ nhắm vào từng kẻ hở của chúng để lẻn qua. Ý em là, nếu em không biết luồn lách thì làm sao em có thể cướp xác chứ.

Quay lại vấn đề chính, lúc ấy hai vị thần ấy có bàn về một cái gì đó... cách gì ấy nhỉ... cách... cách... à phải, Cách mạng Công Nghiệp.

Về phần em, em không hiểu rõ được hai vị thần ấy muốn nói cái gì, nhưng vì họ có nhắc đến bọn Hà Đồng ở chân núi, nên có thể liên quan đến mấy món “đồ chơi” kỳ quặc của chúng.
Nhưng vấn đề là, họ bảo họ sẽ ban sức mạnh của Yatagarasu cho một con quạ, và dùng nó để tiến hành cuộc Cách mạng.

Ban đầu, em cũng không để tâm lắm, bởi bọn Nha Thiên Cẩu, như cái ả phóng viên hóng hớt kia ấy, chính là quạ.

Em nghe một hồi thấy chán nên cũng lẻn về Nhân Thôn tìm xác.

________________________________________

Chiều hôm ấy, em về Hoả Ngục, thì thấy Okuu mất tích. Em nghĩ chắc bạn ấy chỉ lông bông vài chỗ rồi đi lạc. Ai biết được, dù gì cô ấy cũng là đồ não chim thôi. Hoả ngục cũng không quá rộng, nên cô ấy dư sức tìm đường về.

Nhưng không, ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, em vẫn không thấy bạn ấy.

“Quái lạ, cái con não chim này đi đâu mất rồi” Em lẩm bẩm và chạy khắp cái Hoả Ngục để tìm. Sau chứng hai giờ tìm kiếm, em thấy cô ấy đang nằm ngủ bên đống đá.

“Con quạ này, “cháy hết mình” rồi giờ hết năng lượng” Em đưa cô ấy về trên chiếc xe cút kít của mình.

Nhưng lạ lắm, trên ngực cô ấy là một con mắt đỏ khổng lồ.

________________________________________

Những ngày sau đó, em thấy Okuu hành xử rất lạ.

Cô ấy không vui vẻ như trước nữa. Trái lại, cô ấy cứ nhốt mình trong Hoả Ngục, không chịu bước ra. Đôi lúc em vào thăm, thì cô ấy có vẻ không hài lòng. Em hỏi gì cô ấy cũng ậm ừ trả lời cho qua.

Và có một điều đáng lưu ý, là Hoả Ngục nóng hơn ngày thường.

________________________________________

Em biết, rằng Okuu, tuy đã sống lâu năm, nhưng đầu óc cô đơn giản như một đứa trẻ.

Cô ấy... ngày thường, cô ấy rất ngây ngô, dễ thương với cái câu “unyuu~” mỗi khi trả lời em. Và cô ấy cũng rất năng động. Nhìn lại, đúng là cô ấy như một đứa trẻ ấy.

Nhưng, đứa trẻ này lại chịu quá nhiều đau khổ. Bị ruồng rẫy, bị ghét bỏ, đến nỗi phải xuống lòng đất, cũng như đám Quỷ, đám Thổ Chi Tru, hay cô Công Chúa Gác Cầu ở các tầng trên của Cựu Địa Ngục này vậy.

Em không biết rằng, đằng sau những lời nói ngây thơ ấy, lại là một tâm hồn tan vỡ. Tan vì đâu, vỡ vì đâu? Em không biết, bởi vẫn có những con Quạ Địa Ngục khác sinh sống nơi đây.
Sự cô đơn, nghe thì hơi lạ lùng, nhưng có thể vì cô là con quạ đầu tiên, và cũng là con quạ duy nhất trở thành lốt người.

Đám Thổ Chi Tru còn có một cộng đồng để sống. Đám Quỷ, còn có rượu để say, để uống, còn có bạn để gây gổ, đánh nhau cả ngày. Còn Okuu thì sao?

Ngoài tiểu thư và em ra, cô không có ai để bầu bạn, không ai để dẫn dắt.
Ngày qua ngày, tâm hồn cô dần rạn vỡ.

________________________________________

Ngày hôm ấy, một luồng khí nóng phát ra từ Hoả Ngục.

“Chuyện gì thế này?” Em bàng hoàng, và chạy xuống, chạy hết tốc lực.

Em băng qua bãi đá đắm chìm trong biển lửa.

“Okuu!” Em hét. “Cậu ở đâu?”

Em chạy.

Em hét tên cô ấy.

Và cứ thế, em cứ chạy, em cứ hét, mặc cho những ngọn lửa rực cháy bên cạnh mình.

Và cuối cùng, em cũng tìm thấy cô ấy. Cô ấy đứng đấy, trên lưng khoác một áo choàng trắng, mặt trong là một bầu trời sao.

“Okuu! Tạ ơn trời, cậu vẫn ổn.” Em nhìn cô ấy. “Mình lo cho cậu qúa.”

Cô ấy nhìn em, nở nụ cười nham nhở.

“Okuu, có chuyện gì vậy?”

Cô ấy đưa cho em xem, xem cái thanh kim loại màu vàng gắn trên tay cô ấy.

“Cậu nghĩ thế nào? Ngầu chứ?”

Em đứng thần ra, không biết trả lời sao.

“Thần linh đến!” Cô nói “Thần linh đến, và đã ban cho mình sức mạnh này.”

Đáng lẽ em phải nhận ra sớm hơn.

Yatagarasu là con quạ ba mắt ba chân. Và ngày hôm ấy, con mắt thứ ba đã xuất hiện trên ngực cô.

“Mình đã làm đấy! Mình đã tạo lửa cho Hoả Ngục này.”

Con quạ mà hai vị thần trên núi nhắc đến, chính là Okuu.

“Và mỗi lần mình dùng năng lực này, mình cảm thấy mạnh mẽ hơn.”

Sức mạnh này, là sức mạnh của Mặt Trời.

“Mình sẽ dùng sức mạnh này, và thiêu rụi mặt đất.”

‘Ôi không.’

“Như thế được chứ?”

“Đừng đùa như vậy chứ Okuu.” Em trả lời. “Nếu tiểu thư Satori biết chuyện...”

“Nếu tiểu thư Satori biết chuyện...”

Cô ấy mỉm cười.

“Nếu tiểu thư Satori biết chuyện này, cô ta sẽ làm gì?”

‘Đừng nói nữa.’

“Nếu Satori không biết, thì cô ta cũng không đáng được biết.”

‘Đây không phải là Okuu’

“Ả cũng chẳng làm gì mình được!”

‘Okuu, xin cậu đấy, hãy bảo rằng đây chỉ là một trò đùa.’

“Mình cũng chẳng sợ cô ta đâu!”

‘Không, không...’

“Bởi vì... mình có sức mạnh... của một vị thần”

________________________________________

Em rất bàng hoàng.

Phải, em rất bàng hoàng.

Người bạn thân nhất của em, giờ đây đã trên bờ vực điên loạn.

Em lao vào tấn công, nhưng cô ấy, chỉ với một quật, cũng đủ làm cho em lăn ra đất.

Tuyệt vọng.

Em liền thả một bầy Oán Linh lên mặt đất, cầu mong có ai đó xuống và ngăn chặn cậu ấy.

Kết quả ngoài sức mong đợi.

Cô vu nữ của Bác Lệ Thần Xã, và cô phù thuỷ, đã xuống.

Trận chiến đầu tiên, và cũng là trận chiến cuối cùng của Okuu rất ác liệt.

Chìm trong lửa mặt trời, cô lao vào tấn công hai người bọn họ.

Đáng thương thay, cô chưa hề chiến đấu lần nào, nên làm sao nhìn được những đòn đánh bay bổng của họ.

Cô lao vào, phóng khối lửa Mặt Trời, đánh những đòn tuy mạnh liệt, nhưng không kém phần thiếu suy đoán.

Mọi chiến thắng, không phải đơn thuần chỉ dựa vào sức mạnh.

Tất nhiên, cô đã thua.

“Không, không thể nào, tại sao ta thua được chứ?”

Okuu nằm đấy, thở hổn hển trong khi cả hai người bọn họ nhẹ nhàng đáp cạnh bên cô.

“Chịu thua chưa?” Người vu nữ lên tiếng. “Biết điều thì ngoan ngoãn đầu hàng.”

Em bước đến gần, nhẹ nhàng bảo cậu ấy.

“Đủ rồi, đừng làm những việc ngu ngốc này nữa, tớ xin cậu đấy.”

Nhưng không, cô ấy không chịu đầu hàng như vậy.

“Mặt Trời Địa Giới.”

Cô ấy gầm lên, bay lên cao và biến thành một mặt trời thu nhỏ.

“Chết tiệt” Em nghe thấy cô phù thuỷ rủa thầm. “Giờ sao đây Reimu.”

“Tớ cũng không muốn điều này xảy ra...” Người vu nữ trả lời. “Nhưng... chúng ta phải tiêu diệt ả thôi, Marisa”

“Không, đừng mà.” Em hét lên. “Xin hai người đấy, hãy để cho cô ấy một con đường.”

“Chúng tôi không thể” Reimu bảo. “Bây thì tránh ra đi.”

Cô ấy quay sang Marisa.

“Lên nào”

Lúc ấy, em có thể thấy môi Marisa mấp máy từ “xin lỗi”.

Cả hai lướt giữa các khối cầu lửa, tay liên tục phóng bùa và những tia sáng vào Okuu.

Em tuyệt vọng nhìn họ chiến đấu.

“Thời cơ đây rồi” Reimu bảo Marisa. “Chuẩn bị nào”

Marisa khẽ gật đầu.

“Thần Linh “Mộng Tưởng Phong Ấn”.”

“Luyến Phù “Chớp Lửa Tối Thượng”.”

Một tia sáng, cùng với sáu quả cầu anh sáng bay vào Okuu.

Trước lúc ấy, tôi có thể thấy dòng nước mắt tuôn từ khoé mắt Okuu.

“Không thể nào...” Cô ấy khóc.

Và tan biến trong luồn sáng huỷ diệt ấy.

________________________________________

Đến đây, Rin tiếp tục khóc. Satori chỉ biết lấy tay xoa nhẹ đầu con mèo đáng thương của mình.

“Em không thể trách họ, em cũng không thể trách Okuu...” Rin nức nở. “Em chỉ trách bản thân đã không thể ngăn cản cậu ấy.”

“Ta hiểu” Đó là những gì Satori có thể nói với cô.

Một lát sau, Rin đứng dậy.

“Em đi xuống Hoả Ngục đây” Cô nói.

“Cứ tự nhiên, ta cũng chẳng thể ngăn cản em.”

Rin quay lưng lại, chầm chậm bước đi.

Satori cũng bước về phòng mình.

Bất chợt, cô quay lưng lại.

Cô vừa nghe một câu hát.

Một câu hát từ đáy lòng Rin.

Một câu hát mà cô vẫn thường nghe trong tiếng gió hú qua hang động.


“Địa ngục hoang, giờ vắng đi bóng hình người...”

Yuuga ni sakase, Sumizome no Sakura ~ Border of Life

Mùa xuân thứ 130 của Gensoukyou, Nguyệt Thu Thổ Niên.

Cũng như thường lệ, một buổi tiệc chào đón mùa xuân được tổ chức tại Đền Hakurei.

Mọi người, ai cũng niềm nở, vui mừng chào đón mùa xuân dưới những tán cây anh đào nở rộ dưới ánh nắng vàng ấm áp của mùa xuân sau những tháng ngày lạnh lẽo, buốt giá của mùa đông.

Chính xác hơn, hầu hết tất cả mọi người trong vùng đất ảo mộng này đều chào đón.

“Ây da, đó là lý do vì sao ta ghét mùa xuân.” – Tiếng nói vọng lên dưới gốc một cây anh đào, nơi người vu nữ của ngôi đền đang tựa vào, mắt ngắm nhìn khung cảnh xung quanh, miệng cằn nhằn. – “Mỗi lần xuân đến là y như rằng Youkai các người lại tiệc tùng nơi đây. Thế thì làm sao khách dám đến cầu nguyện.”

Cô nâng chén rượu kề môi, nhấp một ngụm nhỏ.

“Và việc thu dọn cái bãi chiến trường này là một cơn ác mộng. Nó làm việc một mình tôi chấp hết nguyên đám các người còn dễ hơn nhiều.”

“Uei, Reimu, giãn xoắn ra đi chứ, mùa xuân mà, càu nhàu mãi sao được.” – Một cô phù thuỷ nhảy đến ngồi kế bên nàng vu nữ, tay giật lấy chén rượu vơi nửa của cô.

“Ê, này.”

Marisa nốc hết chén rượu, bảo – “Với lại, cậu nghĩ cậu có thể chấp hết cả bọn này hay sao?”

“Mộng Tưởng Thiên Sinh, nhanh, gọn, lẹ và sạch sẽ.”

Nói rồi, Reimu rút vài lá bùa, thủ thế.

“Ê, gì chứ không giỡn với cái này.” – Marisa nhảy bật về. “Xuân rồi, tui không muốn bà gây ẩu đả nữa đâu.”

“Vậy thì thôi.” – Reimu cười, cất những lá bùa, nhẹ nhàng ngồi tựa vào gốc cây anh đào.

“Ước gì cuộc sống cứ yên bình như thế này...” – Reimu khẽ nói, mắt lim dim.

Cô chợt nhìn qua chiếc bàn gỗ đựng đồ ăn thức uống của mọi người, chợt thấy một hình bóng với mái tóc hồng nhạt trong bộ kimono xanh.

“Này, cô định làm gì hả, con ma hồng háu ăn.” – Reimu gằn giọng.

“Có làm gì đâu nào.” – Con ma tóc hồng ấy quay lại – “Tôi chỉ muốn xem tài nấu nướng của mọi người thôi mà.”

“Cho cô đánh giá cái bàn tiệc ấy thì chắc mọi người cạp đất ăn quá.”

“Nào, nào, đâu cần phải nói nặng thế, tôi cũng đóng góp một chút quà mà.” – Cô nàng ma bẽn lẽn lấy chiếc quạt che mặt.

Cùng lúc đó, người hầu của cô, một bán linh tên Youmu, nhẹ nhàng đặt lên chiếc bàn một dĩa sashimi, và theo sau là một bình rượu lớn.

“Tch!” – Reimu tặc lưỡi, tay cầm chén rượu nốc một hơi, nhẹ nhàng tựa vào thân cây anh đào, ngắm lấy từng cánh hoa trắng nhảy múa trong cơn gió xuân ấm áp.

“Negawaku wa
hana no moto
nite haru shinamu
sono kisaragi no
mochizuki no koro”

Yuyuko cất tiếng ngâm.

“Hở?” – Reimu đưa mắt sang cô nàng tóc hồng – “Cô nói gì thế?”

“Một bài thơ của của nhà thơ Saigyou Houshi, sống vào khoảng cuối thời Heian đầu thời Kamakura.” – Yuyuko trầm ngâm nhìn nhừng cánh hoa nhảy múa trong không trung – “Năm 1190, cũng ngay vào mùa hoa anh đào, ở chùa Hirokawa, trong lặng lẽ, Saigyou Houshi ra đi vào cõi vĩnh hằng. Tương truyền, ông đã mất dưới gốc cây anh đào, như ước nguyện của ông gửi gắm vào bài thơ.”

“Nhắc mới nhớ, cái họ của cô, và của nhà thơ ấy khá giống nhau, không lẽ cô là họ hàng của ông ấy?”

“Cái đó thì ta không biết, ta không nhớ gì thuở sinh thời cả.” – Yuyuko đưa tay đón lấy một cánh hoa “Nhưng, ta nghĩ người ấy biết.”

“Người ấy? Ai cơ?”

“Yakumo Yukari”
_____________________________________________________________________

Lúc ấy, ở ranh giới của Ảo Tưởng Hương, một youkai với mái tóc vàng, tay phe phẩy nhẹ chiếc quạt, mắt nhìn qua một cánh cổng nhỏ.

“Thưa cô chủ, sao người lại không ra ngoài, mà lại ở đây.” – Một nàng hồ ly nhẹ nhàng bước đến gần, tay đặt dĩa cải muối lên chiếc bàn nhỏ, tay kia cầm bình rượu rót nhẹ vào chiếc ly nhỏ.

“Đúng ra là ta không muốn bị con bé vu nữ ấy làm phiền.” – Yukari cười khẩy “Đám trẻ ấy tò mò lằm, và sau khi nghe được một vài chuyện, chúng sẽ tìm ta cho coi.”

Từ cánh cổng nhỏ ấy, vọng vào tiếng kêu của Reimu.

“Yukari, tôi biết cô đang ở đó, ra đây tôi có chuyện cần hỏi.”

“Thấy không Ran, ta nói có sai.” – Yukari thở dài – “Mà một khi nó đã quyết tâm, thì không có gì có thể làm chúng nó chùn bước được.”

Đoạn, cô đứng dậy. Một cánh cổng thời không xuất hiện trước mắt.

“Từ từ, ta ra.”

Rồi cô bước vào cánh cổng.

_____________________________________________________________________

Yukari bước vào Bác Lệ Thần Xã, tay cầm chiếc ô che ánh nắng buổi sáng khỏi người. Từ trong đám đông, một con quỷ nhỏ nhắn chạy lại, tay cầm bầu rượu.

“Ế, không phải bà đó sao Yukari?” Suika, giọng lè nhè của người say, kéo Yukari vào đám tiệc “Một ly chứ bạn hiền.”

Suika rót sake vào chiếc dĩa lớn, đưa Yukari.

“Phần ngon nhất dành bạn đấy, bạn hiền.” – Suika mỉm cười – “Rượu rót từ chiếc bầu Ibuki vào hộp Ibaraki Trăm Loài Thuốc, và vào dĩa Hoshiguma, có thể bảo là vừa ngon vừa bổ đấy.”

Yukari đón lấy dĩa rượu, mỉm cười bảo.

“Mi học quảng cáo từ ai thế.”

Đoạn, cô nhấp nhẹ từng hớp rượu, cảm nhận chất cồn ấm áp chảy vào huyết quản, cứ như cơn gió xuân ấm áp xua tan đi mùa đông lạnh lẽo. Nhưng tiếc rằng, cái cảm xúc lâng lâng thư thái ấy bị cắt đứt đột ngột của một vu nữ nào đó.

“Yukari!” – Reimu nhảy đến, nắm tay cô youkai tóc vàng ấy kéo đi “Lại đây tôi có việc cần hỏi.”

“Sao hôm nay em bạo thế? Ufufu ~” – Yukari cười khẩy.

“Bạo cái đầu cô đấy.” – Reimu vẫn lôi Yukari theo – “Lại đây, và kể cho tụi này nghe chuyện về nhà thơ Saigyou Houshi nào.”

“Thì, ông là một nhà thơ sống vào khoảng cuối thời Heian đầu thời Kamakura, mất 73 chùa Hirokawa trong mùa hoa anh đào.” – Yukari trả lời.

“Không, chuyện đó Yuyuko kể rồi. Tôi cần biết mối liên hệ giữa Yuyuko và ông nhà thơ đấy thôi.”

“Rồi, rồi, ta sẽ kể.” – Yukari thở dài, quay sang Yuyuko.

“Sao vậy Yukarin~” – Yuyuko nhìn người bạn mình.

“Yuyuko, chắc cũng đến lúc kể toàn bộ sự thật, về nhà thơ, về gia tộc Saigyouji, về cây anh đào không ngày nở rộ, và...” – Yukari chợt dừng, như để góm hết số can đảm trong người– “Và... quá khứ của bạn đấy, Yuyuko.”

Trái với những gì Yukari lo lắng, là người bạn của mình sẽ giảy nảy vì chuyện này, nhưng không, cô nàng ma tóc hồng vẫn điềm tĩnh ngồi.

“Chắc Yukarin có lý do gì chính đáng mới giấu mình phải không nào~”

“Cậu hiểu tớ à Yuyuko~”

Reimu nhảy vào ngắt lời.

“Đề nghị hai bà không tình củm ờ chỗ công cộng, và vào thẳng vấn đề giùm con cái.”

“Giỡn chút thôi mà Reimu.” – Yukari hạ giọng – “Thôi được rồi, nghe đây...”

_____________________________________________________________________

Saigyou ,tên thật là Satou Norihide, từ nhỏ theo học võ nghệ và trau dồi cung kiếm. Saigyou làm võ sĩ cận vệ ở nội thành cho Thái thượng hoàng Toba. Năm 23 tuổi, Saigyou đột nhiên xuất gia và lấy pháp danh là En’i.

Cuối đời Heian chiến loạn triền miên khiến lòng người mất nơi nương tựa. Saigyou nghĩ rằng nếu là võ sĩ không thôi thì khó lòng cứu vớt được người khác, nhưng trở thành nhà sư có thể dùng chánh niệm để dẫn dắt con người khỏi lầm đường lạc lối, vì thế, ông đã xuống tóc tại chùa Shouji-ji ở Kyoto.

Tuy vậy, có một chuyện mà ít người biết, rằng Saigyou có một người con gái nuôi.

Không ai biết được danh tính của đứa bé ấy trừ Saigyou và, trong một phương diện nào đó, Fujiwara no Hirehira, người đã nhận nuôi đứa bé khi Saigyou đến Hiraizumi xin quyên góp tiến giúp đỡ chùa Todaiji ở Nara sau khi ngôi chùa bị tàn phá sau chiến tranh. Fujiwara no Hidehira lúc ấy đã xin được chăm sóc đứa bé, và Saigyou, một mặt không muốn để đứa bé xa mình, nhưng cũng đồng ý. Ta nhớ, năm ấy là năm 1186, khi ấy, đứa bé mới có 3 tuổi. Đứa bé ấy, chính là Saigyouji Yuyuko.

Saigyou ra đi vào giữa mùa hoa anh đào năm 1190, dưới gốc một cây anh đào to lớn, cũng như ước nguyện của ông gửi gắm trong bài thơ kia. Nhưng, ít ai biết rằng, cái chết của nhà hiền sư này chỉ là khi73 đầu cho một câu chuyện tang thương khác.

Một năm sau khi nhận nuôi Yuyuko, Fujiwara no Hidehira qua đời, con ông, Fujiwara no Yasuhira lên tiếp quản. Lúc ấy, Minamoto no Yoshitsune và Saitou no Musashibou Benkei đang được Hidehira bảo trợ, và sau khi ông mất, Yasuhira đã hứa rằng sẽ tiếp tục bảo trợ ông.

Tuy nhiên, Yasuhira đã đầu hàng trước Minamoto no Yoritomo, buộc Minamoto no Yoshitsune phải mổ bụng tự sát. Trong lúc ấy, Benkei vẫn ngoan cường chiến đấu trên cây cầu ở trước cổng chính lâu đài để bảo vệ cho Yoshitsune thực hiện nghi thức của mình. Nhiều chiến binh đối phương cố gắng qua cầu đều gục chết trước bàn tay khổng lồ của Benkei. Sau đó, họ sợ và không dám tiến công nữa. Benkei đứng bất động trên cầu, cơ thể đẫm máu và cắm đầy mũi tên. Khi những người lính có đủ can đảm để đến gần, họ nhận ra ông đã chết trong tư thế đứng vững chãi. Cái chết của ông được dân gian gọi là “Cái chết đứng của Benkei”. Ta nhớ rất rõ, năm ấy là năm 1189.

Saigyouji Yuyuko được một người hầu, theo lệnh của Fujiwara no Yasuhira, đưa đi lánh nạn. Sau một năm lang thang, mùa thu năm 1190, cả hai đã tình cờ đến được chùa Hirokawa, ngôi chùa mà Saigyou Houshi đã ra đi ở đó. Cả hai người xin được tá túc ở ngôi chùa, và được sư trụ trì chấp thuận.

Mùa xuân năm 1191, sau một ngày làm việc, người hầu ấy tựa lưng vào cây anh đào nơi Saigyou Houshi mất và ngủ. Giấc ngủ đó, chính là giấc ngủ nghìn thu.

Vài ngày sau, một người khách bộ hành cũng dừng chân tại ngôi chùa xin tá túc. Không biết vì sao, người lữ khách lại ngủ dưới gốc cây anh đào ấy, và đã yên giấc nghìn thu.

Các nhà sư biết là có chuyện chẳng lành, nên đã tìm cách giải tà, và ngăn cản mọi người đứng dưới gốc cây ấy.

Và đó là lúc Yuyuko có được năng lực của mình, năng lực điều khiển cái chết.

Mùa thu năm ấy, một con chó hoang đi lạc đến chùa. Yuyuko đã xin được chăm sóc chú chó này, và được chấp thuận. Tưởng chừng chú chó sẽ là bạn của cô gái trẻ, nhưng đêm ấy, khi nó thiếp đi, Yuyuko đến bên cạnh, nhẹ nhàng bảo.

“Ngủ ngon.”

Sáng hôm sau, chú chó đã chết.

Ngày khác, trong lúc đang quét sân, Yuyuko gặp một con bướm. Cô buộc miệng bảo “ngủ ngon” thì con bướm rơi xuống đất, và mãi mãi không bao giờ cất đôi cánh của mình nữa.

Cô hiểu rằng, cô có một năng lực nguy hiểm, một thứ ma lực có thể khiến mọi sinh linh trên cõi đời về cõi u linh.

Từ ngày hôm đó, cô ít nói hẳn đi, không còn vui tươi như trước. Cô sợ sẽ buộc miệng nói hai chữ ấy, và thêm một sinh linh về cõi chết.

Mùa xuân năm 1192, ta quyết định lộ diện. Ban đầu, Yuyuko rất sợ hãi khi trông thấy ta, một youkai, nhưng rồi cũng điềm tĩnh và kể cho ta mọi việc. Theo lời cô, có lẽ cái chết của Saigyou Houshi đã khiến cây anh đào, sau được đặt tên là Saigyou Ayakashi thành tinh. Và dù các nhà sư đã ra sức khống chế nó, nhưng cứ mỗi tháng lại có ít nhất một người khách qua đường. Cô cũng thú nhận với ta về cái năng lực chết chóc của mình.

Từ hôm đó, ta liên tục thăm hỏi Yuyuko. Ngày qua ngày, Yuyuko với ta trở nên thân thiết với nhau. Nhưng, mùa xuân năm 1193, sau khi xuống làng để mua lương thực, cô trở về.

Than ôi, ta cũng không thể nào quên được cái cảnh tượng khiếp hãi ấy, cả một ngôi chùa giờ thành bình địa, dòng máu đỏ của các nhà sư chảy lênh láng khắp chùa, mùi tanh hôi của tử thi bốc lên nồng nặc, cách đó không xa, một toán thổ phỉ đang phi ngựa chạy trốn.

Quá sốc, Yuyuko hét lên.

“Lũ khốn các người, chết hết đi”

Ngay lập tức, bọn phỉ ấy ngã xuống, hộc máu mà chết. Đám ngựa cũng không thoát khỏi lưỡi hái tử thần.

Yuyuko gục xuống đất, khóc nức nở. Nhưng hoà trong tiếng khóc tức tưởi kia, ta nghe thấy một tiếng cười man rợ. Phải, đó chính là tiếng cười của cây anh đào ma quỷ Saigyou Ayakashi. Có vẻ như nó rất hạnh phúc khi thấy cảnh tượng này.
Một lát sau, người làng, sau khi nhận được tin dữ, đã đến giúp Yuyuko chôn cất cho những nhà sư xấu số. Trong lúc ấy, ta phải trốn, đồng thời tìm cách kìm hãm sức mạnh ma quái của cây anh đào ấy. Ta không muốn bất kỳ ai chết trong ngày ấy nữa.

Tối hôm ấy, Yuyuko mặc một bộ kimono trắng, bước trước cây anh đào Saigyou Ayakashi đấy. Trên tay cô là hai lưỡi dao sắc nhọn.
Cô nhìn lấy ánh trăng tròn, tay đưa hai lưỡi dao lên cổ, dòng nước mắt tuôn trên má.

“Xuân sang nở rộ anh đào
Trăng rằm tỏ sáng bao la đất trời.”

Hai nhát dao cứa ngay cổ, máu tuôn như suối. Yuyuko gục xuống đất, dòng máu từ cổ cô loang thành hai chiếc cánh bướm.

Trước khi tắt thở, cô thều thào.

“Yukari... lấy thân xác em... phong ấn con yêu quái này...”

Và kể từ ngày ấy, không ai thấy cây anh đào này nở hoa nữa...

_____________________________________________________________________

Kể xong, Yukari nhấp một ít rượu.

“Ta vẫn nhớ rõ, sau khi phong ấn nó, từng cánh hoa anh đào, từ từ rơi xuống đất, hoá thành màu đen.” – Cô thở dài. – “Đúng ra ta không nên kể chuyện này ở đây.”

“Có gì đâu Yukarin.” – Yuyuko nhảy đến ôm chặt người bạn của mình – “Dù sao thì, nó cũng qua rồi mà.”

“Nhưng, không phải lần đó cô muốn phục sinh cây anh đào đó sao?” – Reimu quay sang Yuyuko.

“Tôi đã nói là tôi đâu có nhớ gì lúc thành ma đâu nào.” – Yuyuko trả lời – “Hỏi Yukari thì Yukari cứ bảo “chưa đến lúc”” – Mặt Yuyuko phụng phịu, quay sang Yukari nhìn như trách móc.

“Rồi rồi, tớ xin lỗi vì không nói cho cậu sớm hơn.” – Yukari mỉm cười – “Tối tớ đãi cậu một chầu nhé.”

Yay~”

Trong lúc ấy, Reimu lẳng lặng bước đi, đầu óc vẫn quay cuồng trong dòng cảm xúc lẫn lộn.

Một cơn gió thổi vào cô, cuốn lấy những cánh hoa thanh khiết sau lưng.

Cô bất giác quay lại.

Yuyuko vẫn ngồi đó với Yukari, miệng nhẩm hát:

“Cành hoa ấy nở tươi thắm, kết từ bao buồn đau
Những vong linh đầy ai oán thêu dệt nên đường đi
Và những cành hoa kia nhuộm màu máu sẽ cùng cơn gió kia
Phiêu bạt nơi chân trời, kiếp người bèo dạt mây trôi.”

_____________________________________________________________________

Mùa xuân năm 131, Tinh Đông Hoả Niên.

Mùa xuân năm nay đến với Ảo Tưởng Hương sớm hơn thường lệ. Dù chỉ mới tháng hai, nhưng bao nhiêu băng giá đã lùi xa, nhường chỗ lại cho cơn gió xuân ấm áp. Khắp nơi khắp chốn, những tán cây anh đào nở rộ, phủ lấy cả đất trời trong màu hồng nhạt thanh khiết ấy.

Giữa rừng hoa anh đào, một người thiên nhân và một người trần tục, cùng nhau cùng nhau bước chầm chậm dưới cơn mưa hoa. Một vẻ đẹp huyền ảo khó tả, mang đậm một màu sắc Nhật Bản xưa.

“Kalash, anh có biết ý nghĩa của cánh hoa anh đào không?” – Tenshi lên tiếng hỏi, phá tan bầu không khí tĩnh lặng.

“À... theo tôi nhớ, thì nó tượng trưng cho sự thanh khiết.” – Kalash lúng túng trả lời, một phần do từ nãy giờ anh đang thả hồn vào cõi mộng. – “Mà vì sao cô hỏi bất ngờ thế?”

“Đúng thì đúng, nhưng thiếu nhiều lắm đấy đồng chí.” – Tenshi tinh nghịch cười, tay bắt lấy cánh hoa anh đào đang rơi.

Từ từ, cô hỏi bất ngờ quá khiến tôi loạn lên hết đây.” – Kalash thở dài. – “Để xem nào, hoa anh đào tượng trưng cho sắc đẹp, sự mong manh và trong trắng, là loại hoa "thoắt nở thoắt tàn" nên được các samurai rất yêu thích, vì nó tượng trưng cho "con đường chết" của người võ sĩ. Tôi nói thế có đúng chứ?”

“Đúng rồi đấy.” – Tenshi mỉm cười, đáp. – “Cánh hoa anh đào cứ như là một kiếp người vậy, thật mong manh, thật phù du, nhưng cũng thật đẹp, thật thanh khiết...

... Anh hãy xem, cánh hoa ấy tung bay mỗi khi có một làn gió thoảng qua, cũng như số phận phiêu bạt của con người, nhưng cảnh tượng ấy sao đẹp thế, dù phù du, nhưng lại huy hoàng.”

Vừa dứt lời, cô quay sang nhìn anh.

“Anh nhớ đấy, sống và chết như một đoá anh đào.”

Nghe đến đây, Kalash phì cười.

“Cô học làm văn từ khi nào thế, đồng chí tổng lĩnh nương?” – Kalash lên tiếng, cố gắng kìm nén tiếng cười của mình.

“Gần mực thì đen thôi.” – Tenshi tinh nghịch trả lời. – “Gần anh thì cứ như gần cái nghiêng mực di động ấy, sớm muộn gì thì cũng dính thôi.”

Nhưng chỉ chốc sau, nét mặt cô quay về dáng vẻ nghiêm nghị.

“Nhưng cái này tôi nói thật, miễn là anh còn sống, thì anh hãy cố gắng sống cho thật trọn vẹn, để sau này không có gì nuối tiếc.”

“Phải đấy.” – Kalash đáp, tay đón lấy một cánh hoa anh đào vào lòng bàn tay. Anh mân mê ngắm nhìn vẻ mong manh của chiếc cánh hoa màu hồng nhạt, và buông tay, để nó trôi trong cơn gió xuân.

“À mà này, cô có thể cho tôi biết thêm về cô công chúa u linh đó không?” – Kalash lên tiếng hỏi.

“Saigyouji Yuyuko đấy à?” – Tenshi đáp. – “Cũng có biết, nhưng vì sao anh hỏi vậy?”

“Thì... vì tôi không thể đến Minh Giới, mà tôi cũng cần tư liệu nên...”

“Vậy anh định trả công tôi cái gì?” – Tenshi tinh nghịch hỏi.

“Hai truyền thuyết về hai loài hoa tượng trưng cho mùa xuân ở Việt Nam.” – Kalash đáp, cố gắng thuyết phục người thiên nhân ấy. – “Dù sao ngành học của tôi là Đông Phương Học mà, mấy cái này tôi cũng khá rành.”

“Hm... đồng ý. – Tenshi đáp, đoạn nắm lấy cổ tay anh, kéo đi. – “Về Nhân Gian Lý, tôi sẽ kể cho.”

Kalash thở dài, dù đã quen nhau hơn nửa năm, nhưng đôi khi bản chất hiếu động của người tổng lĩnh nương này cũng làm anh bao lần xây xát. Nhưng có lẽ đó cũng chính là nguyên do khiến anh có thiện cảm với cô gái này. Anh vừa chạy, trong đầu hình thành một nỗi buồn man mác.

Anh chỉ ước rằng anh có thể kéo dài những chuỗi ngày này mãi mãi.

“Nhưng sao năm nay mùa đào đến sớm thế nhỉ?” – Giọng nói của Tenshi đưa anh trở về thực tại.

“Tôi cũng không biết nữa...” – Kalash đáp, đầu cố gắng gạt đi những suy nghĩ tiêu cực ấy ra khỏi đầu. – “Có lẽ do năm nay trời ấm nên mùa hoa đến sớm.”

Cả hai vừa chạy, vừa trò chuyện vui vẻ. Từng cơn gió xuân ấm áp thổi nhẹ nhàng, dọc theo con đường mòn, đưa những cành hoa trôi dạt đến bầu trời xanh biếc. Cả hai người không biết rằng, ở đằng sau một gốc cây anh đào, một người phụ nữ trong bộ áo kimono màu da trời với mái tóc màu anh đào bồng bềnh đang mỉm cười nhìn. Chính nàng đây, là người đã mang mùa xuân đến sớm, người đã xua tan đi cái không khí lạnh lẽo của mùa đông.

Yuyuko, dưới làn hoa anh đào, tay cầm hai chiếc quạt, múa một vũ điệu u linh huyền ảo. Trông nàng như một con bướm chao lượn giữa trời xuân.

“Xuân sang nở rộ anh đào
Trăng rằm tỏ sáng bao la đất trời.”