Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2016

The shattered Star, the sharpened Sickle, and the broken Hammer

Cuộc chiến này đã kéo dài hơn tám năm rồi. Tám năm qua, những người con anh hùng của đất mẹ lần lượt ngã xuống, dòng máu họ thấm đẫm mảnh đất băng giá của Euslavia, và những người ở lại, họ trải qua những sang chấn nặng nề. Tôi từng thăm những thương binh thuộc Bộ Đội Đổ Bộ Đường Không VDV, và tất cả họ đều có một sự phẫn nộ, một sự buồn đau chung. Họ phẫn nộ vì những kẻ khốn nạn bên phía bên kia Terra, họ đau buồn vì những người đồng đội đã ngã xuống khi cuộc đời còn trẻ.

Xin thứ lỗi, tôi hơi lạc vào suy nghĩ của mình. Tự giới thiệu, tôi là Ivan Krushchyov, biệt danh Serp, tức chiếc Liềm, một trung uý thuộc VDV, và là một trong hai người lính đặc công của Euslavia. Sau chiến dịch Amur, tôi và một người đồng chí được trao tặng huân chương cờ đỏ và huân chương sao đỏ, đồng thời được đặc cách trở thành một đơn vị đặc biệt, một “đội quân một người” chỉ được gọi vào chiến trường trong tình huống khẩn cấp nhất, khi những chiến thuật tác chiến thông thường trở nên không hữu hiệu.

Tổng cộng trong cả Liên minh Viễn Đông này, chỉ có sáu người được đặc cách như vậy. Hai người Euslavia, hai người Việt Nam, và hai người Yamato. Mỗi người đều phục vụ cho một nhánh quân khác nhau của Liên minh. Tôi là một người lính VDV, và sẵn sàng chiến đấu khi bộ phận chỉ huy kêu gọi cho lực lượng tinh nhuệ nhất, Lữ đoàn Berkut. Nguyễn Lê Minh Chiến là một người đồng chí ở Việt Nam, phục vụ trong Quân đội Nhân Dân Đông Nam Arasia, và là chỉ huy của lữ đoàn Lạc Long Quân, lữ đoàn lục quân tinh nhuệ với vũ khí công nghệ cao. Lê Huỳnh Minh Nhựt là một nữ xạ thủ du kích của Mặt Trận Giải Phóng Đông Nam Arasia, chỉ huy của lữ đoàn du kích Âu Cơ, một lữ đoàn xạ thủ với lính đặc công. Shinozaki no Hoshigumo, một lính biệt kích của Quân đội Tự Vệ Yamato, chỉ huy của một đạo quân biệt động mang tên Lữ đoàn Thiên Cẩu, và ngay cả đồng chí ấy, bản thân cũng là một thiên cẩu.

Cũng không có gì ngạc nhiên lắm đâu, các nữ nghiên cứu sinh nhỏ tuổi ạ. Thế giới này nó đã hỗn loạn hơn những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Một thế giới với những vũ khí huỷ diệt, một thế giới nơi người Euslavia chúng tôi có những năng lực siêu nhiên, một thế giới nơi những thần thánh, những sinh linh mà chúng ta từng phủ nhận, giờ đây đang bước đi và chiến đấu cùng chúng ta. Thật đấy, mọi thứ thay đổi như chong chóng vậy. Mới ngày nào, chúng ta còn sống hạnh phúc dưới tiếng nhạc, tiếng cười, giờ đây chúng ta sống dưới tiếng bom và tiếng đạn.

Nhưng có vẻ tôi lạc đề rồi, tôi còn hai nhân vật cần phải giới thiệu, nếu ba cô không phiền. Tôi nhớ rằng, ở Tự Vệ Quân Danh Dự của Yamato có một cô gái trẻ tuổi, nhưng mang một sức mạnh thần thánh. Cô ta tên Fujiwara no Kokorohime, có thể đó không phải là tên thật của mình nữa, nhưng, cô ta có thể dùng những bùa phép chiến đấu phi thường, đến nỗi, dù không muốn, nhưng đôi khi tôi có cảm giác cô ta như một vũ khí sống vậy. Nhưng tôi cũng không mấy để tâm lắm, bởi cô ấy thật sự dễ mến, một con người thân thiện trong cái thế giới tăm tối này. Cô ta cũng là một chỉ huy cấp cao, thủ lĩnh của Lữ đoàn Phòng Vệ Hà Đồng, lữ đoàn với những đơn vị tác chiến mặt đất và mặt nước.

Còn người cuối cùng, một con người từng hiền hậu, giờ đây khoá chặt cảm xúc của mình vào nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn. Nikolai Kalashnikov, Molot, cây Búa của Quân đội Nhân Dân Liên Bang Xô Viết Euslavia. Tôi tin là các cô đã gặp anh ta rồi, anh ta là người lính trong bộ giáp đặc chủng của quân xung kích, với khuôn mặt bị cháy hết phần bên trái, tay cầm một khẩu súng phóng điện to lớn.

“Phải, anh ta có vẻ gì đó đáng sợ.” – Người nghiên cứu sinh với mái tóc màu hạt dẻ cột hai đuôi nói với tôi. – “Anh ta có một cái giọng rất lạnh, lạnh hơn cả mùa đông vùng Viễn Đông Euslavia, và điều đó khiến bọn em khó chịu thế nào.”

Anh ta là một người lính thuộc quân đoàn xung kích, quân đoàn bộ binh hạng nặng với nhiệm vụ của một cỗ xe tăng khi đơn vị cơ giới không thể chiến đấu. Anh ta từng rất thân thiện, từng cười nói rất vui vẻ, nhưng sóng gió của cuộc chiến này đã đánh một đòn nặng nề vào tâm lý anh, khiến anh trở thành một con người vô cảm.

Các cô có biết vì sao chúng tôi có biệt danh là Búa và Liềm không? Đó chính là biểu tượng của quốc huy chúng tôi. Nhưng, đó chưa đủ, bởi lá cờ còn có một ngôi sao năm cánh nữa.

“Ý anh là... còn một người nữa có biệt danh là Ngôi Sao sao?” – Nữ nghiên cứu sinh với mái tóc hoe vàng nhìn tôi, hỏi.

Phải đấy, anh ta từng là một đặc nhiệm Spetsnaz, Viktor Suvorov, Zvezda, Ngôi Sao. Cả ba chúng tôi là bạn thân từ thuở nhỏ. Chúng tôi học cùng nhau, chơi cùng nhau, và nhập ngũ cùng nhau. Tôi chọn con đường của người lính dù, Molot chọn trở thành một lính xung kích, trong khi Zvezda chọn trở thành một Spetsnaz. Chúng tôi tuy thuộc ba quân khác nhau, nhưng khi rảnh thì vẫn hú nhau đi lang thang trên khắp phố. Sau khi cuộc chiến nổ ra, chúng tôi vẫn có những cơ hội chiến đấu cùng nhau. Molot đánh thọc sâu vào chiến tuyến kẻ thù, tôi tấn công từ bầu trời, đánh từ trong đánh ra, trong khi Zvezda chỉ điểm những mục tiêu quan trọng cho quân ta không kích. Những cuộc chiến ấy tuy khốc liệt, có những trận thất bại, nhưng ít nhiều chúng tôi đã cản được bước tiến của Hợp Chủng Quốc vào Euslavia.

Và ngày phản công đã đến, chiến dịch Amur được thi hành. Zvezda được giao nhiệm vụ đánh dấu các cứ điểm quan trọng như các công xưởng, doanh trại, sân bay. Với khả năng nguỵ trang của mình, anh đã thành công, và gây hoảng loạn trong hàng ngũ địch. Nhưng, xui xẻo thay, trong một phút sơ suất, anh đã bị phát hiện, buộc phải cố thủ trong một ngôi nhà hoang trên đồi. Anh dùng mọi thứ để đánh trả, trong khi Molot và tôi được phái đến để giải cứu. Chiếc Il-198 bay hết tốc lực trên bầu trời, trong khi ở mặt đất, dàn xe chiến đấu bộ binh T-15 chạy băng qua từng cánh đồng, từng ngọn đồi, tiến đánh để giải vây.

Chúng tôi đến không kịp... chúng tôi đã không kịp. Đạn đã hết, sức không còn để duy trì lá chắn ngoại lực, Zvezda trúng hai viên đạn, một viên vào chân và một viên vào vai. Kẻ thù ngày càng tiến lại gần, tìm cách bắt sống anh. Với chút sức lực cuối cùng, anh hét vào bộ đàm:

“Zvezda với đài chỉ huy, nghe rõ trả lời. Tôi đã bị bao vây, trong tay không còn gì để chiến đấu. Kẻ thù đã tiến đến quá gần. Đề nghị không kích vị trí của tôi, năm mươi ba độ năm mươi lăm phút năm mươi lăm phết chín giây vĩ bắc, một trăm ba mươi độ hai phút tám phết năm giây kinh đông.”

Chúng tôi nghe rõ mồn một lời nói của anh.

“Đã rõ, tiến hành không kích.”

Tôi nghe thấy tiếng người trực điện đàm, giọng của anh như nghẹn lại. Những gì chùng tôi nghe thấy sau đó là tiếng bom nổ, và im bặc. Một sự im lặng đáng sợ, lạnh lẽo bao trùm tất cả. Tôi không thể tin vào mắt mình, khi người bạn của tôi đã hi sinh trên chiến trường như vậy.

“Chỉ huy.” – Giọng Molot tức tưởi nói trên bộ đàm. – “Chúng tôi đã đến đây rồi, xin hãy cho phép được tiến công và tiêu diệt toàn bộ đám tàn quân bọn chúng.”

“Chấp thuận.”

Trên bộ đàm, tôi nghe rõ được tiếng nói của Molot, một giọng nói đầy căm hận:

“Hỡi những người con Euslavia anh hùng. Ngày hôm nay, một người đồng chí của chúng ta đã hi sinh trước lũ phỉ Atlantica. Anh ta chết khi nhiệm vụ còn dang dở, vì thế, hãy cùng nhau hoàn thành chúng, và rửa thù cho Ngôi Sao anh dũng ấy. Hỡi các đồng chí, ZA NAMI MOSKVA, NI SHOGU NAZAD!” (Sau lưng ta là Moskva, không ai lùi bước!)

“URAAAAA!” – Tất cả, kể cả tôi đồng thanh hét. Tất cả đều nuốt lấy thương tiếc vào trong, tay siết chặt lấy vũ khí, đôi mắt hừng hực căm phẫn. Chỉ hơn hai phút sau, chúng tôi đến địa điểm tập kích. Những người lính VDV nhảy khỏi chiếc Il-198, trong khi những chiếc T-15 lao thẳng vào vòng chiến. Những người lính xung kích và những tổ xe T-15 xung phong, bảo vệ cho những người lính bộ binh ratnik cùng các uỷ viên chính trị kiêm quân y ở sau. Chúng tôi đổ bộ vào giữa căn cứ địch, súng bắn hạ tất cả những kẻ chống cự. Những chiếc BMD-8 với pháo chống tăng dễ dàng triệt hạ những chiếc M1A8 Abrams của Hợp Chủng Quốc, bắn thủng lớp giáp bằng uranium nghèo và composite của chúng. Những chiếc AH-95 Apache II không là đối thủ với những đơn vị phòng không. Khi một người lính ngã xuống, chúng tôi chiến đấu với sức mạnh của mười người để trả thù. Súng bắn đỏ nòng, chúng tôi lao vào bóp cổ, đánh cận chiến với chúng bằng mọi thứ, từ dao găm đến nắm đấm. Bị một cuộc tấn công bất ngờ như vậy, hàng ngũ chúng nhanh chóng tan rã.

Ở vòng ngoài, những người lính vẫn chầm chậm tiến lên, càn quét như một con sóng thần. Những phát tesla từ bộ binh xung kích nung chảy giáp xe tăng, và thiêu rụi cơ thể người. Họ tiến như một bức tường thép, không gì có thể cản được cuộc tiến công vũ bão này. Quân đội địch bị kẹt giữa hai mặt trận, tiến thoái lưỡng nan. Chẳng mấy chốc bị tiêu diệt và bắt sống. Chúng tôi thiệt hại hơn hai mươi lăm người, cùng năm mươi người bị thương. Năm chiếc BMD-8 và bảy chiếc T-15 bị bắn cháy, dù tổ lái vẫn sống sót.

Sau đó, Zvezda được truy tặng Danh hiệu Anh hùng Euslavia, Molot và tôi được trao tặng Huân chương Cở Đỏ và Huân chương Sao Đỏ. Nhưng, ngày hôm ấy, một ngôi sao đã tan vỡ.

Tôi đã vượt qua nỗi đau, nhưng Molot thì không. Trận chiến ấy, anh bị một quả đạn lửa kích nổ gần đầu, thiêu cháy một phần khuôn mặt anh, cùng với chấn thương vùng đầu nặng nề. Dù đã được cứu chữa, nhưng anh cũng không còn như xưa. Anh trở nên vô cảm, và thường ẩn mình đằng sau chiếc mặt nạ, trừ khi anh không trong công tác chiến đấu. Anh cũng trở nên cực đoan hơn bao giờ hết, sẵn sàng hướng đến những phương pháp tác chiến khốc liệt nhất, điển hình chính là máy khuếch đại cải tiến, có thể đưa anh vào một trạng thái không sợ hãi, và khuếch đại lớp lá chắn của mình lên nhiều lần, để triệt hạ và phá vỡ trận tuyến kẻ thù. Khẩu súng tesla của anh cũng được cải tiến đáng kể, thay vì dùng nắm đấm tesla cơ động hơn của bộ giáp xung kích hiện tại. Anh gần như không còn biểu lộ cảm xúc, mà chỉ có một vẻ mặt buồn thảm khó tả.

Lúc ấy, cánh cửa mở toang, Molot đứng ngoài, gọi:

“Đồng chí, có vẻ như chúng ta có một nhiệm vụ rồi.”

Vẫn cái giọng vô cảm đấy, anh chầm chậm bước đi.

Có vẻ như tôi phải đi rồi, nên cũng xin thứ lỗi với ba cô khi không thể kể thêm.

“Không sao đâu, đồng chí.” – Cô gái với mái tóc hạt dẻ cắt ngắn nói. – “Dù sao chúng em cũng thu thập đủ thông tin cho bài báo rồi.”

Hoạt động phong trào trong trường Đại Học à? Đó là những gì tôi đáp, trước khi mỉm cười và bước đi vởi khẩu súng máy, tất nhiên là sau khi chào ba cô gái ấy.

Có một điều tôi vẫn muốn nói, rằng vào ngày hôm đó, một ngôi sao tan vỡ, một chiếc liềm mài bén, và một chiếc búa gãy đôi. Nhưng vỉ bất cứ giá nào, chúng tôi vẫn chiến đấu, chiến đấu vì tổ quốc, vì nhân dân, và vì những nụ cười hồn nhiên của những đứa trẻ. Phải đấy, đó chính là nghĩa vụ của một người lính. Một cái giá không rẻ, có những người đã mất tất cả, nhưng họ đều hành quân, đều tiến bước.

Bởi vì... za nami Moskva, ni shogu nazad!

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016

Yuurei Gengakudan ~ Phantom Ensemble

Disclaimer: The lyrics I use in this fanfiction is belong to Asa Turney. Full version of this can be found here.

-------

“Một ngôi biệt thự nằm gần Hồ Sương Mù à?” – Kalash uể oải nói, ánh mắt nhìn lơ đễnh lên bầu trời xanh thẳm. – “Ý cô là Hồng Ma Quán sao?”

“Không.” – Một cô gái với mái tóc màu xanh biếc của trời đáp. – “Tôi đang nói đến căn biệt thự Phương Tây bỏ hoang.”

“Ý cô là... nơi ở của ba chị em đó?” – Kalash bật dậy, nhìn chằm chằm vào mặt cô gái. – “Cô có việc gì với họ à, Tenko?”

“Không hẳn vậy.” – Tenshi tinh nghịch đáp. – “Chỉ là hơi tò mò về ba chị em đó thôi.”

“Vậy sao cô không đi tìm hiểu?” – Kalash hỏi.

“Vì đó là việc của một nhà nghiên cứu như anh mà, phải không?” – Tenshi đáp.

“Cái...” – Kalash bật ngửa trước câu trả lời của ả thiên nhân. – “Thôi được rồi. Muốn thì tôi làm.”

“Cảm ơn anh nhiều nhé, Kalash.”

-------

“Ba chị em nhạc sỹ Prismriver sao...” – Kalash bước qua lại trong căn nhà nhỏ của mình. – “Nghệ sỹ tao linh của quá khứ, với khả năng chơi nhạc cụ mà không cần động vào.”

Anh nằm xuống chiếc chiếu nhò trong góc nhà, mắt lim dim cố gắng nhớ lại ngày hội xuân ở làng. Phải, tiếng nhạc xao xuyến lòng người, tiếng nhạc lạnh lẽo như vọng từ cõi u linh, nhưng, vì một lý do nào đó, tiếng nhạc ấy mang một nỗi buồn, một nỗi thương nhớ. Anh nhớ anh đã khóc trong buổi diễn ấy, trong lòng chứa đầy một dòng cảm xúc cuồn cuộn như sóng biển.

Không một phút chần chừ, anh bật dậy và bước về hướng Hồ Sương Mù trong màn đêm bất tận, chiếc ba lô trên vai, bình nước thép giắt bên hông và cây đèn bão trong tay. Anh muốn tìm hiểu cái cảm xúc hỗn loạn anh cảm nhận được vào ngày ấy.

Chừng hơn một giờ đi bộ, anh đến toà dinh thự đổ nát. Không một tiếng động nào từ trong, tức là ba chị em đã có một buổi diễn ở đâu đó. Nhận thấy một cơ hội ngàn vàng, anh quyết định lẻn vào trong.

Toà nhà tuy cổ, những đống đổ nát, những đống tàn tích vẫn còn đó, nhưng trông chúng rất sạch sẽ. Những căn phòng ngủ được dọn rất kỹ càng, dù anh không tò mò với những nơi riêng tư này. Căn bếp, phòng ăn, phòng khách, tất cả đều rất sạch sẽ, không một hạt bụi bám trên nóc tủ, bám trên chiếc bàn. Sau một hồi lang thang trong toà dinh thự, anh đặt chân vào sân khấu. Giữa căn phòng rộng lớn ấy là một ngôi mộ nhỏ.

“Nơi đây an nghỉ Layla Prismriver, người ca sỹ của cõi trời mùa đông.” – Chiếc bia ấy ghi.

Kalash lặng lẽ lấy một cánh hoa anh luôn mang theo mình đặt nhẹ lên ngôi mộ. Anh kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ.

Pokojcya s mirom! Layla Prismriver.”

Đoạn, anh bước đi, tiếp tục công việc của mình.

“Tên người trần kia, ngươi làm gì ở đây thế?” – Một giọng nói vang lên sau lưng Kalash. Điếng người, anh quay lại nhìn, để thấy ba chị em đang lơ lửng giữa không trung. Ánh mắt họ vẫn vô hồn, nhưng dường như anh có thể nhận thấy một sự tức giận từ trong người họ.

“Tôi, tôi không có ý đó.” – Kalash nói, cố gắng giữ bình tĩnh trước ba tao linh. – “Tôi chỉ muốn tìm một vài tư liệu.”

“Về cái gì?” – Lunasa giận dữ hỏi.

Kalash làm thinh. Anh không đủ can đảm để nói mục đích mình đến ngôi biệt thự. Ba chị em từ từ tiến lại gần anh, khiến anh hoảng hồn bật lùi về. Merlin nhìn chăm chăm vào mắt anh như đang dò xét. Lyrica lục lọi chiếc ba lô anh mang theo trong khi Lunasa nhìn bao quát căn phòng.

“Hm... có vẻ như ngươi cũng không phải là người xấu.” – Merlin lên tiếng. – “Thế thì hãy nói ta nghe, ngươi đến đây làm gì trong đêm khuya như vậy, hỡi người trần?”

“Nếu anh muốn tìm tư liệu để viết một bài báo về chúng tôi thì có gì phải lén lút đâu?” – Lyrica cầm quyền sổ tay của Kalash, tinh nghịch nói. Kalash giật bắn miình trước khi tìm cách lấy lại quyển sổ từ tay Lyrica. Nhưng cô nàng nhanh chóng bay đi, khiến anh mất đà và ngã sấp xuống đất.

“Xin lỗi...” – Kalash lồm cồm bò dậy. – “Nhưng... tôi bị ám ảnh bởi bản nhạc các cô biểu diễn hồi hội ngắm hoa anh đào, nên tôi...”

“Thôi được rồi, tôi sẵn sàng bỏ qua cho anh.” – Lunasa nói. – “Hãy ngồi xuống, và lắng nghe một câu chuyện bi kịch của một gia đình hạnh phúc.”

-------

Ngày xưa, ở một vương quốc xa xôi nọ, có một Bá Tước tên Prismriver. Ngài có bốn người con gái xinh đẹp, tài giỏi. Người chị cả là Lunasa, một nghệ sỹ vỹ cầm, với những bản nhạc u sầu của ánh trăng thu. Người em thứ hai là Merlin, một nghệ sỹ trumpet với những bản nhạc tươi vui như ánh mặt trời ấm áp của mùa xuân. Người em thứ ba Lyrica, một nghệ sỹ dương cầm, với những bản nhạc huyền ảo như ánh sao buổi tối mùa hạ. Và người em út là Layla, một ca sỹ, với giọng hát êm ái của cõi trời mùa đông. Rất nhiều quý tộc để mắt đến họ, nhưng vì không muốn xa rời nhau, nên họ khước từ nhẹ nhàng những lời cầu hôn.

Tuy vậy, sau những biến cố xung quanh một mòn vật lạ mà người cha mang về, cả gia đình Prismriver tan rã. Ngài Bá Tước ra đi trong nỗi tiếc thương của những đứa con, tiền bạc, gia sản của ngài cũng không còn. Chỉ trong hơn nửa năm kể từ cái ngày định mệnh ấy, cuộc sống ấm êm của họ giờ đây chỉ còn trong ký ức.

Ba người chị buộc phải tha hương cầu thực, lấy chồng xa, để lại người em út cô đơn trong ngôi biệt thự lạnh lẽo. Ngày qua ngày, Layla ngóng trông những người chị của mình. Một niềm tin vô vọng, nhưng cô quyết bám níu lấy nó, tuyệt vọng níu kéo những tháng ngày trong quá khứ.

Cuối cùng, gục ngã trong nỗi nhớ, Layla tìm lấy món đồ ma thuật mà ngài Bá Tước đem về, món đồ đã gây nên mọi thứ, món đồ đã phá huỷ đi những tháng ngày hạnh phúc năm xưa. Với những ma lực có được từ nó, cô tạo nên ba tao linh từ hình tượng của những người chị gái. Layla chỉ muốn một lần nữa, chỉ một lần nữa, được nghe tiếng nhạc của những người chị mình.

Tuy vậy, ba tao linh ấy chỉ là hình ảnh phản chiếu mờ nhạt trong ký ức Layla. Họ không phải là những người chị gái ngày xưa. Có thể Lunasa mang mái tóc hoe vàng của người chị ngày trước, có thể Merlin mang mái tóc bạch kim của người chị ngày xưa, có thể Lyrica mang mái tóc màu hạt dẻ của người chị quá khứ, nhưng những tao linh này không phải là họ. Dù với ma thuật mạnh nhất, cô vẫn không thể đưa những nhân cách của những người chị vào ba sinh linh này. Một lần nữa, cô gục ngã trong tuyệt vọng, tuyệt vọng vì mong muốn được nghe bản nhạc cuối cùng.

Những năm tháng sau đó, từng chút một, Layla dạy cho ba tao linh của mình những bài học cơ bản nhất. Từng chút một, từng chút một, những tao linh tiếp thu. Tuy vẫn chưa thuần thục như những người chị ngày trước, Layla vẫn cảm thấy hạnh phúc, bởi cô biết rằng, chỉ một chút nữa thôi, bản nhạc ấy sẽ cất lên như ngày trước.

Nhưng rồi, tuổi gia và bệnh tật dần xâm chiếm cơ thể cô. Ngày qua ngày, cô càng yếu đi. Khuôn mặt xinh tươi ngày nào giờ đây đầy những nếp nhăn của muộn phiền. Nhưng cô vẫn tiếp tục, vẫn tiếp tục dạy bảo những tao linh ấy. Một niềm tin mù quáng, cô biết rõ, nhưng cô vẫn tiếp tục, khát khao được nghe bản nhạc cuối cùng của người chị ngày càng bùng cháy mãnh liệt, một ngọn lửa soi đường cô vượt qua mọi thứ.

Mùa đông năm ấy, Layla trải qua một cơn bạo bệnh. Biết mình không thể sống trên cõi đời này, cô gọi những tao linh, không phải, cô gọi những người chị của mình, trước khi nói ước nguyện cuối cùng.

"Những người chị yêu dấu của em." - Layla thều thào nói. - "Ngày hôm nay, hãy cùng nhau làm một buổi diễn cuối cùng nào."

Layla ngồi giữa sân khấu trong toà nhà mục nát, với ba người chị mình đứng cạnh bên. Giữa anh đèn mờ nhạt, họ cùng nhau chơi một bản nhạc cuối cùng. Tiếng vỹ cầm, tiếng trumpet và tiếng dương cầm đan xem giữa giọng hát thều thào của Layla. Dù không như những ngày tháng ấy, nhưng Layla rất hạnh phúc, hạnh phúc vì một lần nữa, cả bốn chị em được biểu diễn như những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ.

Thuở xa xưa, khúc ca tươi đẹp dưới ánh trăng vàng
Khúc ca thân thương trong đêm xuân ta từng hát vang
Biết bao kỷ niệm, khúc ca huy hoàng dưới vầng trăng sáng

Thuở xa xưa, biết bao tiếng đàn biết bao câu nhạc
Khúc ca thân thương trong đêm xuân ta từng hát vang
Tới đây không còn, tháng năm êm đẹp bên vầng trăng sáng

Và giờ đây, khúc ca đau buồn dưới ánh trăng tàn
Khúc ca đau thương trong đêm đông ta vẫn hát vang
Gió đông khốc tàn, lá cây úa tàn, bên vì sao sáng

Và giờ đây, khúc ca đơn độc dưới ánh trăng tàn
Khúc ca đau thương trong đêm đông ta vẫn hát vang
Tới đây không còn, tháng năm êm đẹp bên vầng trăng sáng

Hỡi khúc nhạc xưa kia, hãy cất lên đi nào
Cùng những tiếng đàn dịu êm chúng ta chơi hôm nào
Khúc nhạc xa xưa dưới bao nhiêu vì sao
Cùng hoài ức vọng vang trong từng cánh đào

Cùng kỷ niệm xưa kia, hãy cất lên đi nào
Cùng bao tiếng nhạc dịu êm chúng ta chơi hôm nào
Khúc nhạc tươi vui dưới bao nhiêu vì sao
Cùng hoài ức vọng vang trong từng cánh đào

Cũng như mùa xuân, hỡi bao tiếng kèn vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui chúng ta vẫn luôn hoà ca
Cũng như đêm thu, tiếng vĩ cầm vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui vang lên đằng xa

Hạ kia đỏ sắc, hỡi tiếng dương cầm vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui chúng ta vẫn luôn hoà ca
Cũng như đêm đông, tiếng ca này vọng vang
Khúc nhạc xưa tươi vui vang lên đằng xa

Bản nhạc kết thúc cũng chính là lúc Layla trút hơi thở cuối cùng.

-------

Tiếng nhạc kết thúc, ba người nghệ sỹ tao linh nghiêng người chào trước khi bước về phía sau cánh gà. Từ trên khán đài, Kalash thẫn thờ ngồi, cố gắng kìm nén những cảm xúc trái chiều đang nổi lên cuồn cuộn như sóng biển. Cái cảm giác đau buồn, tuyệt vọng tìm lại tiếng nhạc ngày xưa, xen lẫn với tình cảm gia đình, tình cảm chị em mãnh liệt.

“Kể từ ngày Layla qua đời, chúng tôi cố gắng hoàn thiện kỹ năng của mình.” – Lunasa nhẹ nhàng bước đến bên cạnh Kalash, bàn tay lạnh lẽo của cô đặt nhẹ lên vai anh. – “Chúng tôi chỉ là những tao linh được tạo ra từ tấm gương mờ của quá khứ, nhưng Layla đã cho chúng tôi một mục đích sống. Và giờ đây, để trả ơn cho Layla, chúng tôi sẽ tiếp tục diễn, để mong ước của Layla không bao giờ tan biến.”

“Một buổi trình diễn tuyệt vời, thưa quý cô.” – Kalash nói.

“Anh chỉ có thể nói thế thôi sao?” – Lyrica tinh nghịch hỏi.

“Không hẳn...” – Kalash hạ giọng. – “Chỉ là... tôi không biết phải nói thế nào. Buổi trình diễn của các cô, nó mang lại một cảm giác, một cảm giác mà tôi chỉ có thể nói là lạnh lẽo nhưng ấm áp. Nó cũng như các cô vậy, bàn tay của cô không một hơi ấm của con người, nhưng với nó, cô lại viết, lại chơi những bản nhạc ấm áp.”

Còn một điều anh không nói, rằng anh đã hiểu được cái cảm xúc khi nghe bản nhạc của ba chị em nghệ sỹ tao linh ngày hội xuân. Đó là tình gia đình, thứ tình cảm mà anh đã vứt bỏ từ lâu, thứ tình cảm mà anh cố gắng chôn chặt dưới nơi sâu nhất của trái tim mình. Anh đã nghĩ rằng, dường như không có gì có thể khơi gợi lại chúng, nhưng những bản nhạc u linh này đã khiến chúng trỗi dậy.

“Cảm ơn các cô.” – Kalash nói thầm. – “Vì đã giúp tôi nhớ lại thứ tình cảm thiêng liêng này.”

Anh vẫy chào từ biệt ba người nghệ sỹ, trước khi bước đi vào màn đêm bất tận.